Có tiếng chuông reo ở cửa, chắc nhà trai
đã đến. Tôi hồi hộp như chính chuyện của tôi năm nào…
MÙA XUÂN CON GÁI
Trích trong truyện dài Dấu Thời Gian
của Hoàng Nguyên Linh Xuất bản tại
Sài Gòn năm 1972 (trang 98-104)
Tác Gỉa
Anh Huy,
Viết thư khó quá, khó gấp mấy
lần lên trả bài, không biết nên xưng hô thế nào cho “phải đạo”. Thôi thì theo
lời và ý của lá thư mới nhận được,“em” xin trả lời “anh” để khỏi mắc vào tội
giả dối, câu nệ với ông thầy mình, nghe anh?
Nhận được thư anh khiến em
phải bối rối, buồn và lo nghĩ nhiều lắm. Bối rối vì không tìm được lối thoát,
không biết mình phải làm sao để những ngườì chung quanh được vui, không phải
buồn như mình. Em đã khổ và buồn nhiều nhiều nên em hiểu được tất cả những cái
đau buốt cuả những kẻ ra đi vì thất bại. Lắm lúc em muốn la hét, đập phá khi
đầu óc quá căng thẳng. Ngồi trên xe hơi như hôm anh lái ở Cấp về, tốc lực của
xe có lúc lên tới 90 cây số thế mà em vẫn thấy chậm. Gió thổi vù vù mà thần
kinh vẫn căng đầy, em chỉ mong sao cho xe lao vào gốc cây hoặc dụng phải chiếc
xe nhà binh chạy ngược chiều, để chiếc xe trong đó có anh và em tan tành ra
không còn một mảnh !
Đấy, những ngày qua em đã
điên rồ một cách tức cười như thế, nhưng em không hối hận. Bây giờ ngồi nghĩ
lại, em chỉ thấy tiếc những ngày đã qua, tiếc mái trường thân yêu, tiếc những
kỷ niệm thời đi học bên các bạn bè, tiếc những giờ học trong lớp với những bài
hình học khó làm sao! Tuổi học trò không bao giờ tìm lại được nữa anh Huy nhỉ ?
Mặc dầu những ngày qua là những ngày em đau khổ và thất bại. Nhưng có những kỷ
niệm, dù là kỷ niệm đau buồn để lúc này ngồi nhớ lại còn hơn là sống không kỷ
niệm, sống một cách êm đềm từ bé đến lớn phải không anh ?Chỉ tiếc rằng giá ngày
đó có lá thư của anh như lúc này, cuộc đời em có lẽ được đầy đủ. Nhưng nói vậy
thôi anh, chứ sự ham muốn của con người ta chẳng bao giờ ngừng, được cái này
lại muốn thêm cái khác nữa. Em lúc đó muốn đọc thư anh, nhưng nếu có thư biết
đâu em lại chẳng ước muốn được anh yêu, muốn anh là hoàn toàn của em và cứ thế
mãi…
Viết tới đây em chợt nhớ tới
một đọan văn trong cuốn “Buddism answers the Marxist Challenge” cuả Francis
Story đại ý kể câu chuyện thần thoại ở nước Nga ngày xưa. Một bác thuyền chài
bắt được con cá thần. Con cá lạy van xin tha và nói nó là cá thần, nếu được thả
ra nó sẽ cho bác thuyền chài bất cứ cái gì bác mong ước. Khi cá được thả ra,
người thuyền chài sẽ có một căn nhà đẹp thay thế cho căn nhà lá khi xưa. Lúc
trở về quả nhiên hai vợ chồng sung sướng bên nhau trong ngôi nhà đẹp và tưởng
rằng họ sẽ tìm được hạnh phúc mà họ đã từng mong muốn nơi thế gian này. Nhưng
rồi một hôm bà vợ thấy nhà thì đẹp nhưng thiếu đồ đạc, người chồng lại ra bờ
sông xin với cá thần, cá thuận cho, hai vợ chồng lại xin có ngườì thu dọn và
lau chùi, xin làm thêm nhà cho rộng, xin vườn cho nhiều, xin thêm tiền … Bất cứ
lần nào xin hai vợ chồng kia đều được toại nguyện. Nhưng không hiểu sao một hôm
hai vợ chồng đó thấy chán, vì của cải kiếm được dễ quá, họ không phải làm gì
cả, họ cảm thấy chẳng có điều gì đáng mong ước nữa. Hai vợ chồng sinh ra cãi
nhau, đánh nhau. Những điều mong ước ngày xưa bây giờ trở thành một gánh nặng
và muốn trở lại sống cuộc đời nghèo nàn làm nghề chài lưới như xưa. Rồi một hôm
người chồng ra bờ sông xin với cá thần một điều ước cuối cùng là xin cá thần
lấy lại hết tất cả những gì cá đã cho vì được toại nguyện rồi vẫn không tìm
được hạnh phúc. Khi trở về nhà người chồng lại thấy căn nhà lá nghèo nàn khi
trước của mình và cũng từ đó hai vợ chồng kia sống hạnh phúc bên nhau.
Xem tới đây chắc anh lại cười
cho em là viễn vông, dài dòng, mang chuyện thần thọai ra kể, nhưng đọc thấy câu
chuyện hay hay, nó lại lên hệ đến giữa anh và em lúc này nên kể cho anh nghe.
Từ ngày bước chân vào trường
sư phạm, mặc dầu vẫn còn phải đi học, em cảm thấy mình đã giã từ đèn sách để
bước vào đời, em thấy em già đi không còn thích mơ mộng như những năm về trước
nữa. Trong thư anh nói: “Anh có lỗi nhiều với em, giờ mong em nghĩ lại. Mọi
người trong nhà đều qúy mến Nga và tin rằng với em anh sẽ tìm được hạnh phúc.
Em đừng nghĩ tới Ngọc nữa, bây giờ nếu Ngọc đến với anh chưa chắc anh đã yêu
Ngoc, không phải anh tìm ra một khuyết điểm nào nơi nàng, nhưng anh cảm thấy
không thể gặp được. Người mà anh đặt hy vọng là em, mong em đừng từ chối”…
Em tin những lời nói cuả anh
là đúng và chính em cũng nghĩ thế, nhưng không phải anh có lỗi, không phaỉ
em, không phải Ngọc. Lỗi không do ai cả, mà làm gì có lỗi ở những tâm hồn
thành thực, bày tỏ tất cả những sự thật của lòng
mình. Em đuổi theo anh trong khi biết anh say mê Ngọc, cuối cùng không ai
gặp ai cả, nó tạo nên cái vòng lẩn quẩn. Nhưng anh Huy ạ ! Tất cả đều đã muộn,
không phải em đã có người yêu hoặc một hoàn cảnh éo le nào. Nhưng hoa nào mà
không tàn, tình nào mà không phai. Nói thế không có nghĩa là giữa Ngọc và anh
hoặc em và anh mọi tình cảm đã chết. Nhưng - lại nhưng- không biết tại
sao em cảm thấy không thể gặp lại anh được. Có phải vì mặc cảm, vì tự ái ? Nếu giờ
cứ cố để mà gặp, em tin và tin một càch thành thật rằng -xin lỗi
anh- em khó có thể yêu anh mãi., hoặc nếu có cũng giảm sút quá nhiều so với
trước kia sau một lần đổ vỡ. Cũng như anh nói nếu bây giờ Ngọc đến với anh, anh
khó có thể yêu lại nàng được, không hiểu tại sao ? Anh tự ái à ? Cũng chưa
đúng; anh hết yêu Ngọc rồi, càng không đúng hơn. Con trai anh còn nghĩ vậy
huống chi con gái như em, phải vậy không anh ? Nếu muốn mà được thì có khác nào
bác thuyền chài trong câu chuyện thần thoại trên kia, làm sao có hạnh phúc anh
nhỉ ? Được anh quý mến đã là đủ với em rồi, em không mong gì hơn nữa…
Trên đây là những lời thành
thật nhất tỏ bày cùng anh, mong anh hiểu lòng em và tha tội cho nếu đã phải làm
phật ý anh lần cuối. Em chẳng còn mấy ngày nữa thi mãn khóa để rồi bước chân
vào đời, giã từ đèn sách, bỏ Sài Gòn lại cho những người con gái cuả mộng, của
mơ. Em ra đi và xin dạy ở một miền thật xa, nơi đó sẽ có núi, có sông,
hoặc có biển rộng bao la, rừng xanh bát ngát. Em sẽ tìm lại được quê hương xứ
sở miền Bắc mà ngày xưa còn bé, em chưa biết
quê hương đẹp thế nào, chỉ còn nhớ những hình ảnh mờ
ảo trong trí óc …
Anh Huy thân mến,
Mới ngày nào còn là đứa học
trò thơ dại, thời gian qua mau anh nhỉ ? chúng em sẽ theo anh để lần lượt bước
chân vào đời, cũng sẽ làm cái nghề “gõ đầu trẻ” mà anh bảo là chán nản. Em chắc
mình sẽ không đỗ thủ khoa để được ở Sài Gòn. Thôi em gửi thành phố này lại cho
anh để mang đi theo hành trang là chuỗi những kỷ niệm daì …
Em cầu Trời Phật độ trì cho
anh và tất cả những người thân được vui sống. Còn em phận gái, nhất là thân gái
dặm trường, mùa
xuân con gái qua mau, thời gian sẽ không đợi chờ con gái, trước sau gì em cũng
phải đi lấy chồng và em mong được tin anh lấy vợ trước khi em lên xe hoa, nghe
anh ?
Thư đã dài, trước khi ngừng
bút em cầu mong anh được vui mạnh luôn.
Em
Nguyễn thị Phương Nga
TÌNH MUỘN
Hoàng Nguyên Linh.
Nơi
tôi dạy ngày trước là một trường nữ
trung học nổi tiếng ở Thủ Đô. Thành phần ban giảng huấn đa số là phái
nữ, nam
giáo sư chỉ có vài vị. Hôm khai giảng năm đó có một nam giáo sư mới đổi
về và
hiện diện trong cuộc họp đầu tiên của hội đồng giáo sư. Bà hiệu trưởng
giới thiệu chàng với mọi người. Đôn đứng lên cúi đầu chào.
Hội đồng gíao sư vỗ tay mừng đón Đôn. Đôn cúi đầu một lần nữa như để cám
ơn tràng
vỗ tay của các bạn đồng nghiệp rồi mới ngồi xuống. Đôn ngồi bên tôi.
Chàng người
nhỏ bé, dáng dấp hiền lành và hơi nhút nhát trước trước các nữ đồng
nghiệp. Đôn
còn rất trẻ, có thể kém tôi cả mười tuổi, đó là ý nghĩ ban đầu của tôi
về chàng.
Đôn dạy toán còn tôi dạy môn Việt Văn. Tôi với chàng dạy cùng giờ và
những lúc ra
chơi Đôn hay đến ngồi bên tôi để nói chuyện. Tôi nghĩ sở dĩ Đôn hay ngồi
bên tôi
có lẽ vì ngày đầu Đôn đã ngồi bên tôi nên như là một thói quen? Ngày
tháng kế
tiếp nhau, Đôn vẫn nói chuyện với tôi bình thường nhưng thỉnh thoảng tôi
bắt gặp
đôi mắt chàng hơi khác lạ. Cái giác quan thứ sáu cho tôi biết là Đôn
thích tôi
nhưng chàng rất kín đáo theo cái kiểu “yêu trộm nhớ thầm”. Tôi đã lập
gia đình
và có một con. Có lẽ “gái một con trông mòn con mắt” nên chàng thích nói
chuyện
với tôi ? Nhưng cả Đôn và tôi không ai nói ra điều gì, vậy mà không hiểu
tại
sao một số đồng nghiệp đã bàn tán về Đôn
và tôi, có lẽ họ thấy Đôn hay ngồi nói chuyện với tôi chăng? Khi tôi
sinh đứa
con thứ ba thì Đôn lấy vợ, thế là bao nhiêu đồn đãi, xầm xì Đôn mê tôi
được dẹp
tắt. Ngày đám cưới của Đôn đa số đồng nghiệp trong trường đều đến dự,
nhưng tôi
chỉ gửi quà mừng và không tới. Tôi vất vả với 3 đứa con, không đi đâu
được, còn
chồng tôi từ ngày tôi sanh đứa con thứ hai thì không bao giờ đi chung
với tôi nữa.
Tôi không muốn nghe người ta hỏi “Anh đâu
hở chị ?” hoặc “Anh có đi không ?”. Tôi
không thích mọi người biết cái thiếu hạnh phúc của tôi… Tôi với chồng
tôi luôn
khác ý nhau, tôi cố gắng giữ gìn cho gia đình khỏi đổ vỡ và các con tôi
khỏi buồn.
Rồi tôi sinh đứa con thứ 4, thứ 5 và thứ 6, mỗi đứa chỉ cách nhau chưa
đầy 18
tháng. Trong khi đó thì chồng tôi không để ý đến nỗi vất vả của tôi phải
chăm sóc
6 đứa con. Chồng tôi hay tìm cách gây gổ với tôi, đôi khi còn dùng thói
vũ phu đề
đánh tôi nữa. Tôi cố gắng chịu đựng vì thời đó đâu mấy ai ly dị chồng,
nhất là
nghề “cô giáo” càng không cho phép tôi làm điều đó. Hình như chồng tôi
đã có vợ
hai và đã có con với người này. Tôi vì quá chán nản nên chẳng cần tìm
hiểu và cũng
chẳng ghen tuông làm gì, tôi chỉ mong sao cho chóng thoát ra khỏi cảnh
này. Rồi
một ngày phải đến đã đến, sức chịu đựng của tôi có giới hạn và tôi đã
phải đi đến
quyết định ly dị chồng. Cái tin tôi ly dị chồng đã làm rung động trường
tôi dạy.
Tất cả các giáo sư và nhân viên trong trường đều biết chuyện. Họ không
hiểu tại
sao một cô giáo đã một thời nổi danh là đẹp, có nước da trắng hồng và
mịn màng,
mái tóc lúc nào cũng óng mượt, đã có 6 mặt con mà còn ly dị chồng. Đa số
nhìn tôi
không mấy thiện cảm. Họ không hiểu được nỗi khổ của tôi. Họ chỉ nhìn bề
ngoài,
một nữ giáo sư đẹp, có 6 con chắc là phải có hạnh phúc lắm. Họ nghĩ tôi
ly dị
chồng là để cặp với một anh chàng nào khác chăng ? Cũng may là Đôn đã
lấy vợ nếu
không họ sẽ nghi ngờ Đôn với tôi. Tôi rất khổ tâm trước búa rìu của dư
luận.
Ban đầu tôi cũng buồn lắm, nhưng rồi tôi tự an ủi là tôi sống cho tôi,
tôi sống
theo lương tâm của tôi, tôi không làm điều gì sai trái với đạo đức. Lấy
chồng được
hơn 10 năm, tôi đã cố gắng chịu đụng để khỏi mang tiếng xấu, có hại cho
thanh
danh của tôi, thanh danh của một nữ gíao sư, nhưng tôi không còn con
đường nào
khác hơn nên đành phải đi đến quyết định ly dị chồng.
Từ khi ly dị, chồng tôi không ngó ngàng gì
tới các con. Tòa án chỉ ra lệnh trừ một phần lương của chồng để chu cấp cho các
con. Đời sống kinh tế thật vất vả. Tôi phải xin đi làm thêm việc thứ hai. Nhờ có
kiến thức ngoại ngữ nên tôi xin được việc làm bán thời gian cho môt hãng thầu
ngoại quốc. Các giờ dạy của tôi được xếp vào buổi sáng nên nguyên buổi chiều tôi
đã đi làm thêm và mướn người trông coi các con và chợ búa, cơm nước, tối về tôi
kèm các con học bài. Tôi sống trong cô đơn nhưng được tự do và từ nay không bị
người chồng quấy rầy nữa. Cuộc sống của
tôi cứ thế trôi đi, các con tôi khôn lớn dần và học hành rất chăm chỉ. Họ hàng
rồi đến bạn bè bắt đầu nể nang tôi và khâm phục tôi là người đảm đang. Thời
gian này tôi ít gặp Đôn vì tôi với chàng dạy khác giờ nhau và mỗi người có một
cuộc sống riêng…
Biến cố tháng Tư năm 1975 xẩy ra, bẩy mẹ
con tôi được hãng thầu Mỹ cho đi định cư tại Hoa Kỳ. Chính người xếp chở chúng
tôi vào phi trường Tân Sơn Nhất rồi đưa lên máy bay C130 cùng với một số đồng bào
Việt Nam
khác. Máy bay tới thẳng đảo Guam ở Thái Bình Dương, hai tuần lễ sau mấy mẹ con
tôi tới trại Fort Chaffee thuộc tiểu bang Arkansas
miền trung nước Mỹ. Fort Chaffee là một căn cứ cũ của quân đội Mỹ cũng giống như
trại Campleton ở California
do chính phủ Mỹ dùng cho những người tỵ nạn tạm trú. Chúng tôi ở trại Fort Chaffee
hơn một tháng thì được nhà thờ Peace Lutheran Church
ở St. Louis thuộc tiểu bang Missouri bảo trợ. Hội viên nhà thờ luân phiên
nhau săn sóc gia đình tôi. Họ đưa tôi đi chợ, đưa các con tôi đi học. Tôi được
hội thiện nguyện Lutheran tìm cho một việc làm rất thích hợp với khả năng tôi đó
là chương trình giới thiệu văn hoá Á Đông cho học sinh bản xứ. Đầu tiên tôi chỉ
cho học trò cách viết của người Việt Nam và người Trung Hoa. Nét đặc biệt
của chữ Việt là các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã , nặng. Các dấu này mà thay đổi thì
ý hoàn toàn khác. Tôi viết lên bảng năm chữ : HAY TRONG CAY VAO CHUA rồi thay đổi
các dấu, câu này sẽ trở thành “ Hãy trông cậy vào Chúa” hoặc “ hãy trồng cây vào chùa”, chữ VO DE sẽ
trở thành “vợ đẻ” hay “vỡ đê” vân vân. Về chữ Tàu cũng vậy. Người Tàu hay dùng
lối tượng hình để tạo nên chữ viết. Từ hình mặt trời người Tàu có chữ “Nhật”, từ
chữ “nhật” thêm đám mây bay qua sẽ thành chữ “Nguyệt”, cao hơn “Đại”(lớn) là “Thiên”
(trời). Hình hai cánh cửa là chữ “Môn” (cửa), để chữ “Thị” (chợ) vào chữ “môn”
thành chữ “Náo” (ồn ào), để chữ “Nguyệt” (mặt trăng) vào chữ “môn” thành chữ “Nhàn”
(nhàn hạ). Tôi liên tưởng tới câu thơ của cụ Nguyễn công Trứ “ Thị tại môn tiền
náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn” (chợ ở trước cửa thì ồn ào, mặt trăng đến trước cửa
thì nhàn hạ), nhưng tôi chỉ nghĩ và mơ hồ về ngày xưa trong những giờ dạy Việt
Văn chứ không dám nói nhiều sợ học trò không hiểu. Tôi nghĩ đến ngôi trường tôi
dạy, nhớ đến bạn cũ, trường xưa, nhớ đến đám học sinh với áo dài trắng, tóc thề
xõa bên vai:
“ Chừ em tóc xoã bờ vai
Nghiêng nghiêng vành
nón chờ ai cổng trường
Gặp em hồn bỗng vấn
vương
Thấy em như thấy tình
thương thuở nào
Mới nhìn lòng đã xôn
xao
Bâng khuâng chưa biết làm sao bây giờ
Nghe đâu tiếng hát vu
vơ:
“Cho tôi gửi một bài
thơ yêu nàng”
Nhưng rồi không dám
bước sang
Ngày ngày đứng đợi xem
nàng cười duyên”…
Mấy
câu thơ tôi đã đọc trong một tạp chí nào đó bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Người ta
thích các em, người ta mê các em là phải. Các em học sinh của tôi, không bao
giờ tôi quên được hình ảnh các em. Các em bay lượn như bướm, lứu lo như chim. Tôi
nay phiêu bạt ở phương trời này, tên các
em, nét mặt dễ thương của các em như Mặc Lan, Ngọc Lan, Ngọc Hà, Ngọc Huệ, Ngọc
Duyên, Kim Oanh, Kim Anh, Tuyết Tường… tôi vẫn còn nhớ. Nay tôi đứng ở đây, cũng bảng đen, phấn trắng
nhưng thấy xa lạ làm sao. Tôi khẽ thở dài rồi cố gắng quay về với hiện tại… Các
lớp tôi dạy, học sinh đều thích thú và nhà trưởng rất toại nguyện về việc làm
của tôi nhưng công việc này chỉ có tính cách tạm thời và được ký từng năm một,
không có bảo hiểm sức khỏe nên ông hiệu trưởng đề nghị tôi thi lấy bằng hành
nghề giáo viên và ông đã hướng dẫn tôi. Ba năm sau tôi trở thành giáo viên chính thức
của School District tại St. Louis và hội nhập với đời sống mới. Lâu dần tôi
cũng cảm thấy mến trường, mến bạn và thương yêu đám học trò và cũng có những
học trò đến thăm tôi, thư từ cho tôi, gửi những thiệp Giáng Sinh, thiệp sinh
nhật cho tôi. Trong khi đó các con tôi lần lượt tốt nghiệp đại học, đi làm và
ra ở riêng. Hơn 25 năm sau tôi xin về hưu trí. Những giờ rảnh rỗi tôi tham gia
làm những việc từ thiện trong nhà thờ như giúp họ điền những giấy tờ, hướng dẫn
cách khai thuế cá nhân hoặc đưa đón những người không có phương tiện di chuyển.
Tôi cũng bắt đầu liên lạc với hội cựu giáo sư và học sinh nơi trước kia tôi đã
dạy ở Việt Nam. Các học trò cũ của tôi hàng năm vẫn tổ chức những cuộc họp mặt
bạn bè và mời thầy cô tham dự. Tôi được Măc Lan, học trò cũ khẩn khoản mời về
chơi. Mặc Lan giữ kín không cho biết những ai tham dự và chỉ nói đông lắm, cô
đến cô sẽ thấy và Mặc Lan hẹn sẽ đón tôi ở phi trường LAX khi tôi về đến nơi. Ngày
ra đi tôi hồi hộp gặp lại bạn bè và học trò. Tôi ra khỏi máy bay và đi qua chỗ
thân nhân đứng đợi nhưng không thấy ai đón tôi. Tôi nghĩ có lẽ Mặc Lan bị kẹt
xe nên đến trễ. Tôi định đi thẳng đến chỗ lấy hành lý rồi mới gọi điện thoại,
bất ngờ tôi gặp Đôn. Chàng chạy lại ôm chầm lấy tôi. Chúng tôi ôm nhau, mừng
mừng tủi tủi sau gần 30 năm trời không
gặp. Đã lâu lắm rồi tình cảm tôi như đã nguội lạnh, bây giờ tôi mới được một
người đàn ông ôm tôi. Vòng tay chàng thật chặt, hình như má chàng cũng chạm vào
má tôi. Tôi như sống lại trong thời xuân sắc. Tim tôi rộn ràng, hồi hộp mà tôi
tưởng chừng như đã chết từ lâu. Buông tôi ra rồi Đôn mới nói:
-
Rất vui mừng gặp lại chị. Sao chị có khỏe không ?
-
Cám ơn anh. Tôi cũng thường. Lâu quá rồi anh nhỉ ? Sao
may lại gặp anh ở đây.
-
Cô học trò tên Mặc Lan cho biết chị đến nên tôi xin ra đón
chị.
Tôi xúc động:
- Thì ra anh đi đón tôi. Cám ơn anh nhiều. Tôi
lại tưởng anh đi chơi đâu về chứ.
Chúng tôi vừa đi đến chỗ lấy hành lý vừa nói
chuyện tiếp:
-
Các bạn đồng nghiệp anh có gặp ai không ?
-
Tôi có gặp một vài vị nhưng các chị ấy nghiêm trang quá,
tôi sợ nên không dám quen thân.
-
Sao anh không sợ tôi, anh còn dám ôm tôi nữa ?
- Xin
lỗi chị, tôi cũng không hiểu tại sao. Có lẽ tại mừng quá. Ngày xưa ở trong trường
tôi cũng chỉ hay nói chuyện với chị thôi mà.
-
Không sao đâu. Tôi cũng nghĩ vậy nên để nguyên cho anh ôm và không phản đối.
Tôi cũng vui mừng và xúc động lắm khi gặp lại anh.
-
Chị biết tính tôi. Lúc đầu tôi không muốn tham gia hội hè gì cả, sau Mặc
Lan nói có chị về nên tôi mới tới dự. Tôi xin đi đón chị trước các cô ấy không
cho đi, tính bắt bí, tôi phảỉ nằn nỉ mãi mới được đi đón đó.
Nghe Đôn nói tôi thấy chàng vẫn
chân tình như ngày xưa nhưng bạo dạn hơn. Tôi mơ hồ như có chuyện gì sắp xẩy
ra. Tôi vừa vui lại vừa lo. Tôi bảo Đôn:
-
Mải nói chuyện nên quên chưa hỏi thăm anh lúc này ra
sao ?
- Bà xã tôi mất cách nay bẩy năm rồi. Các
con đã lập gia đình và ở riêng. Tôi bây giờ sống một mình…
Sợ Đôn buồn nên tôi không hỏi thêm về gia đình
chàng nữa. Đôn giúp tôi lấy hành lý rồi chúng tôi ra xe để về nhà Mặc Lan, học
trò cũ của tôi và Đôn.
Trên đường về, cả Đôn và tôi mỗi người như
theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hình ảnh trường xưa bạn cũ hiện ra nơi tôi. Thời gian qua mau tôi tưởng như mới ngày nào…
Xe dừng lại đánh thức tôi trở về với thực tại. Đôn phải khó khăn lắm mới tìm được
chỗ đậu xe. Khi chúng tôi vào nhà mọi người
đã đông đủ. Tiếng vỗ tay vang lên xen lẫn với tiếng cười. Trong buổi họp mặt hình
như chỉ có tôi từ xa đến còn đa số các gíáo sư khác đều ở Orange
County hoặc Los Angeles County.
Các bạn đồng nghiệp và học sinh cám ơn tôi đã đến họp mặt dù đường xá xa xôi.
Người vui nhất và săn sóc tôi nhiều nhất là Đôn. Cả học trò và giáo sư thỉnh thoảng
cũng xen vào những câu nói đùa tôi với Đôn. Tôi thấy thật vui khi gặp lại đông đủ
mọi người. Bao kỷ niệm được gợi lại. Có học sinh đem khoe hình ảnh chụp với thầy
cô ngày trước, có em đưa ra khoe cuốn lưu bút ngày xanh, Mặc Lan mang quyển Thông
tín bạ ra khoe, có kèm theo lời phê và chữ ký của tôi trong đó: “Học hạnh song
toàn, kết quả mỹ mãn”. Tháng trước Mặc Lan có gọi điện thoại cho tôi và nói em
rất cảm động và biết ơn tôi về lời phê bình đó. “Lời phê bình này em chỉ có một
lần trong đời và em luôn ghi nhớ, chính nhờ lời phê bình đó mà em đã cố gắng
sao cho xứng đáng với nhận xét của cô về học vấn và đức hạnh, em đã mang theo cuốn
học bạ này sang Mỹ và sẽ giữ mãi trong đời em…”. Những người học sinh Việt Nam có
tình như thế, có lòng như thế tôi tin là họ phải thành công trên trường đời. Ngày
nay Mặc Lan đã là một nữ bác sĩ nổi danh và nhiều em khác nữa cũng thành công
không kém. Bữa tiệc họp mặt kéo dài đến gần nửa đêm mới chấm dứt mặc dù cuộc hành
trình khá xa nhưng vì quá vui nên tôi vẫn không thấy mệt. Mặc Lan dành cho tôi
phòng riêng và tôi ở lại chơi một tuần. Ngày nào Đôn và học trò cũng luân phiên nhau đến đưa tôi đi chơi.
Đôn và các học trò đề nghị tôi bỏ St. Louis về sống ở California.
St.
Louis là một thành phố cổ kính, người dân ở đây rất mộ
đạo. Nhà thờ san sát trong thành phố, cứ cách mấy con phố lại có một nhà thờ.
Ngày Chủ nhật là ngày của Chúa. Chợ và các tiệm lớn đều đóng cửa để mọi người đi
lễ nhà thờ. St. Louis
mùa Đông rất lạnh và buồn, khó thích hợp với người về hưu trí như tôi. Các con
tôi nay đã lớn và ở riêng, nhưng tôi chỉ
hứa để về suy nghĩ và bàn lại với các con chứ chưa có quyết định gì cả.
Ngày vui qua mau. Tôi phải trở lại St.
Louis. Đôn bịn rịn đưa tiễn tôi tận phi trường. Từ đó tuần nào Đôn cũng gọi
điện thoại cho tôi. Rồi một hôm Đôn đến St. Louis thăm tôi và đề nghị tôi về
chung sống với chàng. Tôi thật khó nghĩ, không biết tính sao, mấy chục năm nay
tôi vẫn sống độc thân được thì nay cứ tiếp tục như vậy đâu có sao. Tôi gọi các
con tôi về để giới thiệu Đôn và tôi hỏi ý kiến các con. Tất cả các con đều vui
vẻ tán thành nhưng tôi vẫn thấy e ngại vì tôi nay đã lớn tuổi và đã có cháu
nội, cháu ngoại. Các con tôi tán thành là một việc nhưng còn người thân và bè
bạn nữa. Họ sẽ ngạc nhiên lắm khi một bà
giáo có 6 mặt con trước đã ly dị chồng, nay từng này tuổi đầu mà còn tái giá. Làm sao tôi
tránh khỏi miệng lưỡi người đời…
Tôi đang chần chừ suy nghĩ thì
nhận được thư của con trai lớn từ Washington DC gửi về. Đại ý con trai tôi
viết:
Thưa mẹ,
Con đã hỏi ý kiến các em.
Nay con viết thư này kính tin mẹ rõ. Tất cả chúng con không những chỉ yêu mẹ mà
chúng con còn kính phục mẹ nữa. Một mình mẹ đã đảm đang, nuôi nấng và dạy dỗ
chúng con nên người. Mẹ vất vả mà không hề kêu than, mẹ cô đơn mà không hề oán
trách. Mẹ cố gắng vươn lên trong mọi tình huống khó khăn. Mẹ là tấm gương cho
chúng con noi theo. Chúng con hiểu đời sống tình cảm của mẹ rất cô đơn nhưng mẹ
lấy cái vui của chúng con làm nguồn vui của mẹ. Nay chúng con đã trưởng thành,
đã đi làm và không được ở gần mẹ. Mẹ đã sống vì chúng con và sống cho chúng con.
Chúng con không khỏi xúc động khi những việc hệ trọng, liên quan đến đời sống
tình cảm của mẹ mà mẹ cũng đặt chúng con lên trên những quyết định của mẹ. Mẹ
nói nếu một trong các con phản đối thì mẹ sẽ từ chối đề nghị của chú Đôn.
Chúng con đã gặp chú Đôn
tháng trước, tất cả các em con đều vui mừng khi có người sẵn sàng cùng mẹ đi
nốt quãng đường còn lại. Chú Đôn đã yêu mẹ từ lâu, chúng con mong mẹ nhận lời
chú để mẹ và chú sống với nhau, an ủi nhau trong tuổi xế chiều. Tất cả chúng
con đều yêu thương mẹ nhưng chúng con đều đã có gia đình và ở xa. Chúng con tin
là chỉ có chú Đôn mới làm được việc này…
Cuối
thư tất cả các con cùng ký tên và viết thêm hàng chữ “con yêu mẹ nhiều”.
Tôi như muốn trào nước mắt khi đọc xong lá thư của các con và cũng thầm
phục con trai lớn đã cẩn thận lấy chữ ký của các em cho tôi yên tâm.
*
Ngày đám cưới của Đôn với tôi
được tổ chức đơn gỉản tại Peace Lutheran Church. Tôi không phải là tín đồ đạo Tin
Lành nhưng nhà thờ này đã bảo trợ và giúp đỡ gia đình tôi nên tôi tổ chức ở đây
như là một lời cám ơn đối với họ. Tất cả các con và các cháu tôi đều về tham
dự. Ngoài một số hội viên nhà thờ, tôi không mời ai cả. Tôi chỉ gửi thiếp báo
tin đến một số bạn bè và kèm theo thư cám ơn đến nữ Bác Sĩ Trần Nguyễn Mặc Lan,
cô học trò đã cho tôi cơ hội gặp lại Đôn.
Con gái và con dâu đã lo quần áo
đám cưới và giúp tôi trang đìểm. Tôi soi bóng mình trong gương thấy tôi đẹp và trẻ hẳn ra. Tôi hồi hộp sung
sướng. Đôn giắt tay tôi ra xe để đi đến nhà thờ. Ngồi sau hàng ghế Đôn nói nhỏ
bên tai tôi “anh yêu em ngay từ ngày đầu tiên đổi về trường nhưng hôm nay mới thật
sự có em” . Tôi ngả đầu lên vai Đôn và nắm thật chặt tay chàng như muốn giữ
chàng mãi bên tôi và nói nhỏ trong nghẹn ngào “ em cám ơn anh. Chúng mình sẽ ở
bên nhau mãi nghe anh”.
Tiếng chuông nhà thờ ngân vang
như để đón mừng mối tình mới đang nồng nàn yêu thương nhau…
QUÊN ĐI NGÀY THÁNG CŨ
Hoàng Nguyên Linh
Tôi sinh ra là một người con gái con nhà nghèo. Bố tôi mất sớm lúc
tôi chưa được 8 tuổi, mẹ tôi phải đi ở đợ cho một gia đình giầu có. Công việc hàng
ngày của mẹ tôi là dọn dẹp nhà cửa, đi chợ và nấu ăn cho nhà bà Đạm, một thương
gia, chồng chết, có 2 người con, một trai và một gái. Con gái bà tên Minh Thư bằng
tuổi tôi, có lẽ vì lý do này mà bà Đạm đã mướn mẹ tôi để có người chơi với con
gái bà. Con trai bà tên Thuấn hơn tôi 7 tuổi.
Tôi được đi học cùng với Minh
Thư, chúng tôi chơi thân với nhau khiến bà Đạm rất vui mừng và đối xử tử tế với
mẹ con tôi. Tôi được biết trước đây bà Đạm có mướn một người làm nhưng Minh Thư
không thích chơi với người con gái nên đã bị cho nghỉ việc.
Thuấn thương em gái nên tôi được
thương lây. Thuấn thường hay đưa chúng tôi đi chơi, đi coi hát và chỉ dẫn cho
chúng tôi làm bài ở trường. Thuấn che chở cho tôi và bênh vực tôi mỗi khi bị những
đứa trẻ khác bắt nạt. Có lần chơi ở sân tôi bị té ngã, Thuấn ôm tôi vào lòng và
an ủi tôi: “Em bé ngoan đừng khóc nữa anh thương”. Tôi cảm động muốn trào nước
mắt. Thuấn vuốt nhẹ mái tóc tôi và lau nước
mắt cho tôi . Chàng bảo “ Ngân Khánh phải cười trông mới đẹp”. Được Thuấn khen đẹp
tôi thích và cười với chàng. Thuấn ôm chặt tôi một lần nữa rồi mới buông ra.
Tuy mới 12 tuổi nhưng tôi mơ hồ hình như có một cảm giác là lạ, hay hay. Tôi
mong té ngã một lần nữa để được Thuấn ôm tôi và lau nước mắt cho tôi… Tôi buồn
nhất là ngày Thuấn phải ở nội trú trong trường Đại học. Tôi bắt đầu nhớ Thuấn.
Mỗi cuối tuần tôi đứng ở cửa đợi Thuấn về và cứ như thế năm này qua năm khác rồi
chúng tôi đã yêu nhau lúc nào tôi cũng không biết. Khi tôi học xong bậc Trung học
thì Thuấn tốt nghiệp bác sĩ y khoa. Tôi yêu Thuấn, một tình yêu chân thật, trọn
vẹn chứ không bao giờ dám có ý định làm vợ Thuấn vì hai gia đình quá cách biệt,
mặc dù Thuấn có nói với tôi là Thuấn sẽ cưới tôi làm vợ. Tôi tin tưởng ở Thuấn
nhưng làm sao bà Đạm có thể chấp nhận mẹ tôi thông gia với bà. Tuy biết như thế
nhưng chúng tôi vẫn yêu nhau say đắm và không thể rời xa nhau được.
Bà Đạm là một người đàn bà tốt
nhưng rất cương quyết và thẳng thắn. Hình như bà đã biết được chuyện hai chúng
tôi yêu nhau và chuyện Thuấn muốn cưới tôi làm vợ. Một hôm đợi Thuấn và Minh Thư đi vắng bà Đạm gọi
hai mẹ con tôi lại và nói rất ôn tồn: “ Con gái chi Tư đã lớn nên ở đây bất tiện.
Mặc dù tôi và hai con tôi rất quý hai mẹ con chị nhưng tôi vẫn phải cho chị nghỉ
việc. Trai gái không nên để chúng nó gần nhau. Trong vòng một tuần chị tìm nơi
khác để dọn ra. Tôi cho chị 6 tháng đủ tiền ăn ở, sau đó mẹ con chị có thể tự túc
được. Tôi chỉ yêu cầu chị và cháu hứa với tôi một điều là không cho hai con tôi
biết gì hết và không bao giờ được liên lạc với chúng nữa. Chị cứ sẵn sàng rồi đợi
hôm nào hai con tôi không ở nhà thì dọn ra…”.
Tôi quá bất ngờ và sửng sốt. Tim tôi ngừng đập, mặt tôi tái đi. Bà Đạm
nhìn hai mẹ con tôi như ra lệnh. Tôi thấy bà thật nghiêm nghị. Gần 10 năm sống
trong nhà bà, lần đầu tiên tôi thấy nơi bà đáng sợ như vậy. Mẹ tôi cũng sợ bà và
nói trong nghẹn ngào: “ Tôi xin hứa và sẽ làm theo lời bà”. Bà Đạm gật đầu như để
chấp nhận lời hứa của mẹ tôi. Bà nhìn sang phía tôi. Lúc này nước mắt tôi đã trào
ra. Tôi nghĩ đến ngày phải xa Thuấn, xa Minh Thư, xa mái nhà thân yêu với bao kỷ
niệm thời niên thiếu mà tôi đã quên đi tưởng như nhà mình. Không thấy tôi nói gì,
mẹ tôi nắm chặt tay tôi và lắc nhẹ. Bà Đạm nhướng mắt lên ra lệnh. Tôi nói
trong nghẹn ngào: “Cháu xin hứa sẽ làm theo lới bà ”.
Bốn hôm sau Thuấn và Minh Thư
đi vắng, mẹ con tôi dọn ra khỏi nhà bà Đạm. Trước khi lên xe tôi nhìn ngôi nhà
một lần cuối lòng không khỏi bùi ngùi. Nơi
đây như một mái ấm gia đình trong thời niên thiếu, có bao nhiêu kỷ niệm, có mối
tình đầu. Tôi bước đi nhưng đôi chân như hụt hẫng. Tôi thương tôi nhưng nhìn mẹ
sụt sùi lau nước mắt tôi càng thương mẹ hơn. Thuấn ơi! Từ nay em sẽ phải xa
anh, vĩnh viễn xa anh. Vì danh dự, vì giữ lời hứa với bà Đạm em không thể nào gặp
lại anh được. Mối tình em với anh tưởng là thần tiên, bây giờ đây mỗi người một
ngả. Anh biết gia đình em quá nghèo sao anh lại còn yêu em, sao anh lại muốn cưới
em làm vợ để em phải xa anh… Đứng ở cửa tần ngần một lúc rồi mẹ con tôi lên xe để
đến ở chung nhà với bà bán rau muống ngoàì
chợ mà mẹ tôi đã quen vì hay mua rau của bà. Cuộc sống của mẹ con tôi hoàn toàn
thay đổi. Bao nhiêu mộng đẹp của thời con gái đã tan theo mây khói. Tôi đang dự
định thi vào một trường chuyên nghịêp nào đó để giúp đỡ mẹ tôi, nhưng không may
chuyện xẩy ra quá bất ngờ, tôi không kịp xoay xở gì nữa. Tôi phải xin đi làm thư
ký cho một hãng bào chế thuốc Tây. Nhìn
những chuyên viên mặc áo trắng đi qua lại, tôi liên tưởng tới Thuấn trong bộ đồ
bác sĩ y khoa, lòng tôi không khỏi xót xa. Tôi không bao giờ được gặp chàng nữa.
Mẹ tôi từ ngày dọn ra ngoài ở
thì sức khỏe đã suy yếu nên không còn làm được gì nữa ngoài việc nấu ăn. Mẹ tôi
nấu ăn ngon lắm. Nếu mẹ tôi còn trẻ bà đã mở một quán ăn. Gần 10 năm nấu ăn, cả
nhà bà Đạm mọi người đều thích. Thuấn, con trai bà Đạm đã nói với mẹ : “ Con đã đi ăn tiệc ở nhiều
nơi nhưng không ăn ở đâu ngon bằng ăn ở nhà do bà Tư nấu” . Nào là món gỏi gà bắp
cải thêm chút rau răm, đậu phộng rang rắc lên trên . Rau muống xào tỏi hoặc xào
với thịt bò, rồi món rau muống trộn với mắm tôm vắt chanh, thêm ít ngò gai,
kinh giới và đậu phộng rang, có khi mẹ tôi cho thêm tép hay thịt thái nhỏ. Món
nộm hoa chuối mẹ tôi gọi là nham hoa chuối cũng rất ngon. Cuối tuần mẹ tôi hay nấu
bún riêu, bún ốc hoặc canh chua… món nào cũng đặc biệt. Nay mẹ con tôi đi rồi
Thuấn không được ăn những món mà chàng thích nữa. Càng nghĩ tôi lại càng thương
chàng. Anh ơi mẹ em đi rồi ai nấu cho anh ăn những món mà anh thích. Em đã học ở
mẹ một vài món, dự định sẽ nấu cho anh ăn nhưng em chưa kịp làm thì đã phải xa
anh. Xa anh em không được nói câu từ giã. Anh có trách em vô tình em cũng xin đành
mang.
“Ngày đi lặng lẽ không từ giã
Cất bước âm thầm thương nhớ thôi”
Hai câu thơ của một tác giả
nào đó đã áp dụng với tôi bây giờ thấy đúng làm sao. Nếu một ngày kia tình cờ gặp
lại anh hay Minh Thư em sẽ phải trả lời ra sao. Em có được nói sự thật là vì chúng
mình yêu nhau nên mẹ anh đuổi mẹ con em không?
Đầu óc tôi rối loạn, tôi không tìm được câu tả lời. Chắc tôi không nói thế được.
Tôi không oán trách gì bà Đạm, nếu là tôi liệu tôi có làm khác bà được không ? Bà
Đạm là người đàn bà có thế lực, làm sao bà có thể thông gia với mẹ tôi, một tôi
tớ trong nhà mà bạn bè, khách khứa ai cũng biết. Tuy buồn nhưng tôi cũng thông
cảm với bà. Mẹ tôi cũng biết thân phận mình nên không hề oán trách bà Đạm. Đôi
lúc tôi tự trách tôi, làm sao tôi dám với quá cao để giờ bị té đau, nhưng rồi tôi
lại bênh vược cho chính tôi. Người con trai như Thuấn làm sao tôi không yêu được.
Thuấn có đầy đủ mọi điều kiện, người con gái mới lớn như tôi sao không ngã lòng.
Con tim có những lý do riêng của nó, người ta vẫn nói thế.
Nhưng nếu chỉ yêu nhau rồi xa nhau thì cũng
là sự thường tình của thế nhân, hợp để rồi tan, Trên đời này có biết bao nhiêu
mối tình chia ly bằng nước mắt. Nhưng tôi đã yếu đuối, không làm chủ được thân
xác tôi và đã dâng hiến trọn vẹn đời con gái của tôi cho Thuấn. Hai tháng nay tôi
không thấy có kinh nguyệt, cơ thể tôi bắt đầu thay đổi, ngực tôi căng phồng thêm,
tôi bắt đầu lo sợ. Tôi đi thử nghiệm và được biết tôi đã mang thai. Tôi đắn đo
nhưng rồi cũng phải thú nhận với mẹ. Mẹ tôi không la mắng như tôi nghĩ, bà chỉ
khuyên tôi cố gắng giữ gìn sức khoẻ cho cái thai được tốt. Mẹ tôi cũng nghĩ như
tôi là vì danh dự và giữ lời hứa nên không cho Thuấn biết tôi đã có thai với chàng.
Tôi thấy mẹ tôi buồn, tôi hỏi là mẹ có trách vì tôi mà bà Đạm đuổi mẹ con tôi
không thì mẹ tôi trả lời là bà không trách nhưng thương tôi, tội nghiệp cho tôi.
Bà biết trai gái mà để sống chung với nhau trong nhà thì chuyện gì rồi cũng sẽ
phải xẩy ra, nhưng bà chưa kịp khuyên bảo tôi.
Tôi mang thai được gần 9 tháng
thì mẹ tôi qua đời. Buổi tối mẹ tôi nói bà bị nhức đầu, tôi lấy thuốc cho mẹ uống
và nửa đêm thì mẹ tôi ra đi. Bà ra đi bình yên, lặng lẽ, buồn thảm như cuộc đời
mẹ, Tôi không ngờ mẹ tôi chết dễ dàng quá.
Tôi đau buồn và đã ngất xỉu đi, không còn biết gì nữa…
Sau năm ngày ở trong bệnh vịên, tôi tỉnh lại và đã
nhận thức được. Sờ tay lên bụng thấy bụng
đã xẹp xuống biết là tôi đã sinh nhưng không biết đứa bé giờ ra sao. Đợi
người y tá đến gần tôi hỏi thăm về con tôi. Người y tá trả lời: “ Bác sĩ thấy không
có hy vọng cứu sống cô nên đã mổ để lấy cháu bé ra. Cháu rất khỏe mạnh. Không
biết cô có đủ sức để nuôi nấng con không. Cháu là con gái, mặt mày sáng sủa lắm. Rất mừng
cô bình phục trở lại, đó cũng là nhờ 3 vị bác sĩ đã tận tình chữa trị, các vị ấy
tử tế với cô lắm, coi cô như người nhà …”. Một giờ sau người y tá mang con đến đưa
tôi bế và nói : “Cho cháu ở đây với cô một lúc rồi tôi đưa cháu trở lại phòng để
cô nghỉ vì vết mổ chưa lành”. Nhìn thấy con, tôi hết sức vui mừng, sao tôi thấy
nó thân thương gần gũi quá. Có nhà văn đã nói: “ Đứa con là tác phẩm vĩ đại nhất
trong số những tác phẩm mà tôi có”. Nhưng vừa vui tôi chợt buồn ngay. Tôi chỉ có
một thân một mình làm sao có thể nuôi được con. Tôi lại phải đi ở đợ như mẹ tôi
ngày xưa. Nhưng mẹ tôi còn có người mướn
chứ tôi đứa con còn đỏ hoẻn ai chịu cho làm. Hay tôi nhờ người báo cho Thuấn biết.
Tôi vội xua đuổi ý nghĩ này, vì tự trọng, vì danh dự của hai mẹ con, tôi không
thể liên lạc với gia đình bà Đạm được nữa. Người y tá đến mang con tôi trở lại
phòng dưỡng nhi, nước mắt tôi trào ra…
Tôi khai ở bệnh viện là chồng
tôi đi lính chết bây giờ chỉ có mình tôi, không có thân nhân, không bạn bè, mẹ
tôi mới chết hôm tôi vào đây. Hoàn cảnh của tôi đa số các nhân viên đều biết, họ
nói chuyện với nhau tôi nghe được: “Cô ta còn trẻ và xinh đẹp quá, tội nghiệp
chồng bị chết sớm”. Mấy hôm sau ông chủ sự phòng hành chánh của bệnh viện đến bên tôi
và nói: “ Tôi xin lỗi đã đi vào đời tư của cô và có thể làm cô buồn, nhưng
trong hồ sơ tôi thấy hoàn cảnh cô thật khó khăn. Chúng tôi rất aí ngại không biết
khi xuất viện cô ở đâu và làm sao nuôi được con, lúc đó cô cũng phải đem cho hoặc
bỏ vào viện mồ côi và người nhận nuôi con cô không biết họ thế nào, có được tốt
không, rồi lại tội nghiệp đứa bé… Tôi có quen hai ông bà này rất giầu và tử tế,
họ lấy nhau trên 16 năm mà không có con, đang có ý định tìm nuôi một đứa con nuôi,
nếu cô đồng ý cho họ nuôi tôi sẽ nói với người ta. Cô suy nghĩ rồi cho tôi biết”.
Tôi quá đau buồn, mới gặp con vài lần giờ sắp phải xa nhau. Ông chủ sự nói đúng,
tôi không đủ phương tiện để nuôi con. Biết bao người hoàn cảnh như tôi đã phải
bỏ con ngoài đường, bỏ vào cổng chùa, viện
mồ côi… Nếu con tôi có được người tử tế nuôi cũng là điều may cho nó. Đi ở với
người ta cuộc đời nó có thể khá hơn là ở với tôi. Tôi đã làm khổ con tôi rồi, nó
không có tội gì để phải khổ thêm nữa. Tôi không thể ích kỷ giữ mãi con bên tôi.
Nghèo là khổ lắm. Tôi với Thuấn yêu nhau chỉ vì tôi nghèo mà phải xa nhau. Thuấn
ơi! Chỉ vì nghèo mà em phải xa anh, chỉ vì em nghèo mà chúng ta phải xa con chúng
ta.
Tôi trả lời ông chủ sự là tôi
muốn được gặp bố mẹ nuôi của con tôi. Hôm sau hai người này tới. Đúng như ông
chủ sự nói, nhìn hai ông bà rất phúc hậu khiến tôi yên tâm. Người chồng hỏi tôi
có yêu cầu đìều gì không, tôi nói tôi chỉ mong có con và đặt tên là Thuận Khanh
(tức là gần tên Thuấn và tên tôi), nhưng nay tôi không còn cái quyền này nữa. Người
chồng ôm vai vợ cười lớn: Em tên Thuận, cô ấy tên Khánh. Một bên mẹ nuôi, một bên
mẹ đẻ, đúng là trời đã xếp đặt, sau này cháu bé sẽ gặp nhiều may mắn lắm. Chúng
tôi bằng lòng với lời ước nguyện của cô. Cô còn yêu cầu điều gì nữa không? Tôi lắc
đầu không nói ra lời… Buổi chiều ông chủ sự gặp tôi để cho biết lúc tôi xuất viện
thì họ mang con tôi đi. Ông còn nói thêm là ông bà này rất mừng khi thấy tôi không
đề cập đến tiền bạc, chỉ lo đặt tên cho con chứng tỏ tôi trọng tinh thần chứ không
phải vật chất, như vậy gốc đứa bé rất tốt. Cô lại rất xinh đẹp, họ hy vọng con
họ sau này cũng sẽ đẹp như cô. Ngày cuối cùng tôi được bế con tôi một giờ. Tôi ôm
chặt con tôi trong lòng như giữ gìn một báu vật, tôi không muốn rời xa nó nữa,
nhưng vì chữ tín tôi không thể nào đổi ý được. Nước mắt tôi trào ra, ai nhìn thấy
cảnh chia ly này cũng phải ngậm ngùi. Dù đã quá giờ người y tá không nỡ lấy đứa
bé ra khỏi tay tôi. Tôi ghì chặt con tôi vào lòng và đặt chiếc hôn lên má con rồi
đưa cho người y tá. Đích thân ông chủ sự trao tôi một túi vải lớn, nói tôi nên
giữ cẩn thận vì đây là số tiền khá nhiều do bố mẹ nuôi đứa bé đưa, đủ cho tôi ăn
ở 4, 5 tháng như là để cám ơn tôi chứ không
có ý mua bán gì đâu. Tôi nói lời cám ơn ông chủ sự cùng bác sĩ và các nhân viên
trong nhà thương rồi ra về.
Tôi thuê xe đến thẳng nhà bà
bán rau muống. Khi đến nơi tôi không gặp bà và thấy có người lạ ở trong. Tôi hỏi
thì được biết vì có người chết nên bà bán rau sợ hãi và đã bỏ đi. Người thuê nhà
mới con cái đông và giá thuê rẻ nên đã dọn vào. Tôi ra ngoài đường và phân vân
không biết đi đâu, chợt một chiếc xe Honda dừng trước mặt, tôi nhận ra chị bạn
làm chung hãng với tôi khi trước. Sau khi hỏi han chị biết chuyện nên đã thương
tình rủ tôi về nhà ở chung với chị. Trong khi đó những người trong hãng họ không
biết lại tưởng tôi đã theo chồng đi ngoại quốc.
“ Hãy
cố yêu người mà sống, lâu rồi đời mình cũng qua…”
Lời ca của bản nhạc trong “Bài không tên số 5” đã thức tỉnh tôi phải
can đảm và cố gắng chịu đựng.
Mấy tháng sau nhờ có người
chỉ dẫn tôi tìm được mộ mẹ và thắp nén hương lên mộ bà. Thời gian này tình hình
Saì Gòn ngày càng giao động và biến cố
tháng Tư năm 1975 xẩy ra. Tôi theo đoàn người ra bến Bạch Đằng, sao may tôi lên
được tàu và sang tới Hoa Kỳ, định cư tai tiểu bang California. Tôi cố gắng lập lại cuộc đời, vừa
đi làm vừa đi học . Sau một năm bổ túc Anh văn tôi ghi danh vào Đại học, 4 năm
tôi ra trường về ngành kỹ sư điện tử, rồi tôi lập gia đình với một nha sĩ giầu
có. Tôi đi khám răng và gặp chồng tôi. Chồng tôi hơn tôi 11 tuổi, góa vợ và có
một con trai. Chúng tôi lấy nhau được gần
14 năm. Chồng tôi mới qua đời cách nay 3 năm. Tôi tiếp tục vừa làm chủ trung tâm
nha khoa cũ của chồng tôi vừa đi làm cho công ty điện tử. Đời sống tuy có bận rộn nhưng vật chất rất đầy
đủ vì có hai nguồn lợi tức. Tôi nghĩ đến thời gian nghèo khổ khi xưa, nhớ đến mẹ
và đứa con gái riêng lòng không khỏi xót xa. Tôi đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không
biết được con tôi bây giờ ra sao, còn ở lại Việt Nam hay đã qua Mỹ ? Tôi có nhờ hội
Hồng Thập Tự tìm kiếm nhưng không ra. Tôi ngày đêm cầu nguyện để được gặp con gái
tôi…
Tôi đi khám định kỳ hàng năm
và được giới thiệu đến bác sĩ Nguyễn Trọng Toản chuyên về tim mạch. Nghe
tên bác
sĩ tôi chợt nhớ ra vị bác sĩ đã cứu sống tôi ở bệnh viện Việt Nam khi
xưa. Sau khi khám bệnh và
cho thuốc, tôi nói với bác sĩ Toản chính tôi là người được bác sĩ chữa
trị gần 25 năm về trước.. Nhận ra tôi vị
bác sĩ này mừng lắm. Cũng may tôi là người khách cuối cùng nên ông đã có
nhiều
thì giờ nói chuyện với tôi. Bác sĩ Toản cho tôi biết cách đây 2 năm
trong cuộc
họp mặt của hội y sĩ toàn quốc tại Texas
ông có gặp Thuấn, người tình cũ của tôi. Nghe tên Thuấn tôi lặng người
đi nhưng
cố giữ bình tĩnh để nghe kể: “ Thuấn với tôi học cùng lớp với nhau nhưng
không
thân. Tôi có gặp chị đi chơi với Thuấn vài lần nên nhớ. Tôi chữa trị cho
chị và
nghĩ Thuấn bỏ rơi chị, nên tôi tránh không muốn nói gì với ai, ngay cả
lúc chị
sinh đẻ trong bệnh viện cũng vậy. Kỳ vừa qua gặp nhau ở Texas tự nhiên
Thuấn tâm sự với tôi là Thuấn
yêu chị lắm nhưng bị bà mẹ ngăn cản và không có cách nào gặp được chị.
Sau khi
chị đi rồi Thuấn giận mẹ nên không chịu lấy vợ, mãi sau thấy bà cụ quá
buồn nên Thuấn mới lập gia
đình. Đến nay Thuấn vẫn không có con và vợ chồng đã ly dị vì không hợp
nhau.
Nghe tôi nói chị đã có thai với Thuấn và chính tôi chữa trị cho chị,
Thuấn xúc động
lắm. Thuấn thương chị và thương đứa con của anh chị phải đi làm con nuôi
người
ta, không biết giờ này ra sao. Mẹ Thuấn biết tin cũng buồn lắm, bà đã
hối hận cho hành động của bà để đứa cháu
duy nhất bị bỏ rơi, nay bà đã trên 80 tuổi vẫn chưa có cháu bế…”. Nghe
lại chuyện xưa lòng tôi nặng chĩu và không
cầm được nước mắt. Bác sĩ Toản hỏi tôi có đồng ý cho Thuấn biết đã gặp
tôi không, tôi dặn bác sĩ thôi đừng nói gì cả, chuyện xưa
nên cho vào dĩ vãng, điều cần thiết là tìm được đứa con chúng tôi. Tôi
chào bác
sĩ Toản rồi ra về, lòng buồn mênh mang:
Biết được tin anh cũng đủ rồi
Tâm sự có nhiều vẫn thế thôi
Ra đi không nói câu từ giã
Em biết chuyện mình mãi cách đôi
*
Cứ mỗi năm nhìn lá uá vàng
Chạnh lòng nhớ lại lúc Thu sang
Anh ơi! Thu đến mang sầu tới
Khơi dậy mối tình đã cách ngăn
*
Một lần yêu đã quá khổ rồi
Nhắc làm chi chuyện cũ anh ơi
Thân
tuy gầy yếu tim băng gía
Giữ mãi trong em bóng một người
*
Biết được tin anh đã đủ rồi
Em bây giờ cũng vẫn đơn côi
Bao nhiêu kỷ niệm, bao đau đớn
Và khóc âm thầm, khóc mãi thôi…
Nhưng thôi tôi không muốn tiếp tục làm thơ
buồn nữa. Tôi trở về với đời sống hiện tại của tôi. Tôi không có con nên
yêu
con trai của chồng tôi như con đẻ. Tân (tên con trai của chồng tôi) rất
quý tôi.
Tuy đã ra hành nghề bác sĩ nhưng tất cả những chuyện riêng tư Tân đều
mang ra hỏi
ý kiến mẹ. Một hôm Tân khoe với tôi Tân quen một cô gái tên Thuận Khanh
kém Tân
4 tuổi. Hiện nay Thuận Khanh là dược sĩ, trông nom tiệm thuốc Tây của
gia đình.
Tân và Thuận Khanh quen nhau qua dịch vụ thương mại. Nghe con trai nói
đến Thuận
Khanh tôi rất hồi hộp, liệu có sự trùng tên, trùng tuổi được không?
Thuận Khanh có phải là con gái tôi
không? Tôi hỏi con trai xem gia đình Thuận Khanh ra sao, thì được biết
bố Thuận
Khanh đã mất chỉ còn mẹ già trên 70 tuổi. Nhà giầu lắm, tất cả tài sản
sau này sẽ
là của Thuận Khanh hết. Tôi hơi lạ, nếu là mẹ nuôi thì đúng chứ mẹ đẻ
có thể trùng tên. Tôi nói con
trai tôi đưa Thuận Khanh về nhà tôi chơi. Gặp Thuận Khanh tôi linh cảm
ngay người
con gái này là con tôi. Nét mặt vừa giống tôi vừa giống Thuấn. Không cầm
được lòng
tôi ôm chầm lấy Thuận Khanh và thốt lên: “con ơi! mẹ đây”, nhưng rồi tôi
chợt
nhớ ra, chưa phải là lúc mẹ con thổ lộ tâm tình nên đã buông Thuận Khanh
ra và
nói lời xin lỗi: “ Bác xin lỗi con, tại bác thấy con dễ thương quá nên
bác mến”.
Thuận Khanh nói: “ Không sao đâu bác. Được bác yêu quý và cho đến nhà
thăm bác con
rất vui mừng. Trước khi đến con sợ lắm, nay thấy bác vui vẻ như mẹ con ở
nhà, con
thật có phước. Mới gặp bác lần đầu nhưng con có cảm tưởng như đã gặp bác
từ lâu
rồi ”. Lòng tôi dịu xuống, tôi thầm cám ơn ông bà mẹ nuôi đã dạy giỗ con
gái tôi
nên người, dạy cách ăn nói khôn khéo và lễ phép. Tân thấy mẹ yêu thích
bạn thì
mừng lắm, chàng mỉm cười nhìn Thuận Khanh. Tôi giữ Thuận Khanh ở lại ăn
cơm. Lần
đầu tiên tôi được nấu cơm cho con gái tôi ăn. Tôi hỏi thăm sơ qua về
những ngày
đã qua của Thuận Khanh, tôi tránh những chi tiết sợ con gái nghĩ tôi tò
mò. Cám ơn Trời Phật đã giúp cho mẹ con tôi được gặp lại nhau…
Khi Thuận Khanh ra về tôi hỏi con trai tôi chương
trình dự trù như thế nào, Tân cho tôi biết tháng sau chúng định làm đám hỏi và 4
tháng nữa sẽ làm đám cưới. Thuận Khanh muốn lo sớm vì mẹ đã già, muốn cho mẹ được
vui.
Ngày đám hỏi qua đi một cách
thuận lợi. Người mẹ nuôi của con gái tôi không nhận ra tôi. Có lẽ bà không ngờ
một cô gái nghèo khổ ngày xưa nay là thông gia với bà. Tôi nhận ra bà Thuận nhưng
vẫn giữ im lặng không cho ai biết chuyện tôi là mẹ đẻ của Thuận Khanh để cho các
con tôi không phải bận tâm và tránh gây nên sự buồn phiền cho bà mẹ nuôi, một ân
nhân của tôi. Tôi rất vui mừng sửa soạn đám cưới cho con. Tôi hồi hộp lo đến ngày
đám cưới vừa cho con gái vừa cho con chồng.
Bốn tháng qua đi thật mau. Đám cưới của các con
tôi tổ chức rất trọng thể. Gần 700 quan
khách tham dự. Con gái tôi lộng lẫy trong bộ áo cưới. Có nhiều người đã nhận xét
là mẹ chồng với con dâu trông rất giống nhau như hai mẹ con, chắc là sẽ hợp với
nhau lắm. Tôi vui mừng nghĩ ngợi từ nay con gái tôi sẽ được ở chung nhà với tôi,
và tôi sẽ dành hết thì giờ săn sóc con gái tôi. Văng vẳng bên tai như lúc nào cũng
nghe thấy lời chúc mừng hạnh phúc…
Đám cưới xong hai con đi hưởng
tuần trăng mật, tôi ở nhà một mình. Vì quá lo lắng và bận rộn cho ngày đám cưới
nên tôi thấy trong người hơi mệt. Tôi sợ có vấn đề về tim như trước nên đi khám
bác sĩ gia đình nhưng khi đến nơi mới biết bác sĩ đã đi nghỉ hè và ông nhờ người
khác tạm thay thế vài ngày. Vì đến trễ và không có hẹn trước nên tôi là người được
khám sau cùng. Cô y tá cân đo và thử nhiệt độ. Nhịp tim và nhiệt độ của tôi bình
thường. Tôi ngồi trong phòng đợi một lúc thì Thuấn mở cửa bước vào. Bất ngờ gặp
Thuấn tôi kêu lên: “Anh!”. Thuấn cũng ngạc nhiên, ôm chầm lấy tôi: “Em ! Không
ngờ gặp em ở đây, anh mừng quá !”. Thuấn kể lể những sự nhớ nhung và xin tôi
tha lỗi. Thuấn nói : “Anh không ngờ mình đã có con với nhau. Từ ngày nghe bác sĩ
Toản nói chuyện về em anh buồn và ân hận quá. Khi đẻ chỉ có một mình em làm sao
xoay xở…”. Tôi bảo Thuấn : “ Hãy quên đi ngày tháng cũ”. Bây giờ mỗi người có một
cuộc sống riêng, còn gặp nhau và quý nhau là đủ rồi. Tôi không oán hận ai cả,
chỉ mong mọi chuyện cho qua đi. Thuấn hỏi tôi về con gái chúng tôi, tôi nói Thuận
Khanh bây giờ rất hạnh phúc nhưng chuyện hơi dài, sẽ nói cho Thuấn sau. Thuấn rất
mừng khi thấy tên con gái là tên Thuấn và tên Khánh hợp lại. Biết tôi bây giờ vẫn
còn độc thân nên Thuấn đề nghị cùng chàng tái hợp. Mặc dù vẫn còn yêu Thuấn nhưng
tôi rất ngại, một lần chia tay đã quá khổ rồi, bây giờ tôi đang sống yên ổn và
hạnh phúc với con gái mới tìm được, tôi không muốn có sự xáo trộn trong đời sống
nên đã từ chối. Không được tôi chấp thuận
Thuấn có vẻ thất vọng. Một lúc sau Thuấn hỏi thăm về mẹ tôi, khi biết mẹ tôi đã
qua đời chàng cúi đầu xuống che dấu sự xúc động rồi cho biết bà Đạm bây giờ bệnh
tình rất nặng, sức khoẻ được tính từng ngày. Bà đang nằm trong bệnh viện, nếu được
tôi bỏ qua chuyện cũ thì bà mừng lắm. Thuấn gợi ý muốn tôi đến bệnh viện thăm bà
Đạm, tôi nhận lời.
Hôm sau tôi đến bệnh viện thấy
Thuấn và vợ chồng Minh Thư đã ở đó. Minh Thư gặp tôi rất mừng . Minh Thư hỏi thăm
tôi và cho địa chỉ mời đến nhà chơi. Hàn
huyên một lúc, Thuấn và vợ chồng Minh Thư ra ngoài cho tôi nói chuyện với bà Đạm.
Tôi cầm bàn tay gầy yếu của bà và hỏi:
-
Bà còn
nhớ cháu không, cháu là Ngân Khánh đây ?
Bà Đạm thều thào:
- Ngân Khánh ! Làm sao tôi quên được cháu.
Mong cháu tha lỗi cho tôi. Vì tôi quá nghiêm khắc mà mẹ con cháu phải khổ. Tôi cũng nghe tin bà Tư đã qua
đời. Tội nghiệp bà Tư. Thôi tôi sẽ gặp bà ở bên kia thế giới để xin lỗi bà vậy.
Bà
Đạm tiếp:
- Ông trời đã phạt tôi. Có đứa cháu duy nhất thì
hất hủi nó, bây giờ tôi không có cháu nào
ở bên cả. Vợ chồng Minh Thư lấy nhau lâu rồi vẫn chưa có con.
Nói
xong nước mắt bà trào ra vì ân hận khiến tôi cũng buồn lây. Giọng bà run run tiếp
:
- Tôi không sống được nữa và sắp phải ra đi. Tôi
xin cháu một điều không biết cháu có thể giúp tôi không ?
Tôi lắc tay bà Đạm:
-
Xin bà cứ
nói.
Bà Đạm cố lấy sức lực còn lại nói ngắt quãng
từng câu:
- Bác mong cháu nhận lời tái hợp với con trai bác,
có như vậy bác mới yên tâm ra đi. Thuấn yêu cháu lắm. Thuấn đã lấy vợ nhưng lúc
nào cũng nghĩ đến cháu nên hai vợ chồng đã bỏ nhau.
Đôi mắt bà Đạm yếu đuối nhìn tôi như cầu xin.
Tôi thấy thương bà như mẹ. Gần 10 năm ở
với nhau tình cảm dù sao cũng đã sâu đậm, thật khó có thể từ chối lời yêu cầu của
một người sắp lìa đời như bà. Tôi im lặng suy nghĩ giây lát rồi nói trong xúc động:
-
Vâng, con
xin nghe lời bác.
Bà Đạm mỉm cười, mắt bà mở hé
ra như thầm cám ơn tôi. Giữa lúc đó Thuấn và vợ chồng Minh Thư đi vào. Bà Đạm cầm bàn
tay Thuấn để lên bàn tay tôi, một lúc sau mắt bà nhắm lại và hơi thở yếu dần. Y
tá vội vàng gọi bác sĩ. Tôi và Thuấn đứng cách ra xa cho y tá làm việc. Tôi lau
nước mắt cho Thuấn rồi nắm chặt tay chàng, nghẹn ngào nhìn bà Đạm từ từ lịm đi…
NHƯ MỘT ĐÁM MÂY ĐEN
Hoàng Nguyên Linh
Theo
chương trình du lịch tôi ghé thăm Thái Lan 3 ngày trước khi về Việt Nam. Ngày đầu
tiên tới Thái Lan, vợ chồng tôi cùng hai cặp vợ chồng người bạn tất cả 6 người đi
chung một chuyến.
Chúng
tôi tới Thái Lan trời đã tối. Người hướng dẫn của công ty du lịch nói với chúng
tôi là còn 4 người Việt Nam nữa cùng đến Thái Lan nhưng máy bay bị trễ một giờ
và ngỏ ý muốn chúng tôi đợi vì đường từ phi trường về đến khách sạn Royal River
rất xa, phải mất hơn một giờ lái xe. Vì quá mệt và muốn về nghỉ nên chúng tôi hối
thúc hướng dẫn viên cho chúng tôi về khách sạn trước để nghỉ, nhân viên hãng du
lịch buộc lòng phải chiều theo ý đa số. Đợi chúng tôi làm thủ tục giấy tờ và nhận
chìa khoá xong chiếc xe của hãng du lịch mới trở lại phi trường đón 4 người Việt
Nam kia. Chúng tôi vào được phòng ngủ nơi khách sạn vì quá mệt với cuộc hành trình
dài nên chỉ kịp tắm qua loa rồi lên giừng nằm ngủ và đã thiếp đi cho tới sáng.
Gần 8 giờ sáng chúng tôi đang ăn điểm tâm
tại khách sạn thì có mấy người Việt Nam đi đến và ngồi gần bàn chúng tôi. Nghe họ nói chuyện với nhau tôi biết là những
người này phải ngồi đợi ở phi trường gần 3 tiếng đồng hồ. Tôi chợt thấy ân hận.
Nếu chúng tôi đồng ý đợi thêm 1 giờ nữa thì họ không phải chờ đợi ở một nơi xa
lạ lâu như vậy. Chồng tôi và những người bạn đi cùng hình như không ai bận tâm gì
cả. Cũng vì áy náy và ân hận nên tôi chú ý đến những người đồng hương này. Họ gồm
có 2 vợ chồng tuổi trên dưới 50, một người con gái chừng 20 và một người đàn ông
trông rất quen hình như tôi đã gặp ở đâu rồi thì phải. Chàng đi một mình, bạn của
gia đình kia. Tự nhiên tôi thấy tò mò muốn biết tại sao chàng lại đi một mình.
Tất cả mọi người chúng tôi đều có vợ có chồng đi với nhau. Chàng người cao lớn,
mặt mày sáng sủa, đẹp trai, hơn tôi khoảng 3, 4 tuổi. Chàng nói chuyện rất vui
vẻ với mọi người, mấy bạn trong nhóm ai
cũng thích. Thế là nguyên một ngày đầu đi chơi tôi luôn luôn để ý đến chàng. Chàng
còn độc thân hay đã ly dị ? Câu hỏi này cứ xoáy mãi trong đầu óc tôi.
Ăn sáng xong cả đoàn chúng tôi bây giờ là
10 người dưới sự hướng dẫn của một hướng dẫn viên người Việt Nam tên Trực. Trực
tuổi chừng 30, là người tị nạn sống trong trại tạm trú ở Thái Lan, đợi mãi không
có nước nào cho đi định cư nên đã trốn ra ngoài và nhờ được một gia đình người
Thái giúp đỡ nên nay đã là công dân Thái. Vì biết tiếng Việt và tiếng Thái nên
công ty du lịch tuyển vào làm hướng dẫn viên. Trực rất lanh lợi và hiểu biết nên
được lòng du khách.
Ngày đầu chúng tôi đi tàu trên sông, con tàu
khá lớn nhưng chỉ có 10 người trong nhóm chúng tôi ở trong. Tôi không nhớ được tên
sông, nhưng người hướng dẫn cho biết nơi này trước kia là chợ nổi, nay đã bị dẹp
vì không giữ được vệ sinh trên sông. Thuyền đi được chừng 20 phút chúng tôi nhìn
xuống dòng sông có cá rất nhiều, cá bơi lội từng đàn chen lấn nhau. Một chiếc
thuyền nhỏ đi theo bán những ổ bánh mì để khách trên thuyền ném xuống cho cá ăn,
nhìn cảnh cá chen nhau ăn mồi thật vui mắt. Chừng nửa giờ sau thuyền đi hết đọan
sông có nhiều cá, tôi ngồi ngay ngắn trở lại và bắt đầu để ý đến cảnh vật chung
quanh bờ sông. Khi quay sang bên trái phía dưới tôi nhận ra người ngồi gần là
chàng. Tôi mải mê ném mồi cho cá ăn và vô tình không để ý. Tôi tự nhiên thấy tiếc,
nếu tôi nhận ra chàng trước và chúng tôi chia nhau miếng bánh mì và cùng vất xuống
cho cá ăn thì vui biết mấy. Tôi bước lại ngồi bên chàng và gợi chuyện:
- Cá nhiều ghê anh há ?
- Vâng. Lần đầu tiên tôi thấy cá trên sông
nhiều như vậy.
- Hôm qua anh về đến khách sạn lúc mấy giờ
?
- Khoảng 2 giờ sáng.
- Phải đợi lâu và lại ngủ ít chắc là mệt lắm
?
- Cũng khá mệt. Nếu họ cho biết trước là
phải đợi thì không sao. Chúng tôi chỉ sợ hãng du lịch họ quên không ra đón. Chúng
tôi có nhờ nhân viên phi trường liên lạc về công ty du lịch nhưng vì đã khuya nên
không có người nghe điện thoại. Trực (hướng dẫn viên) có giải thích lý do về sự
chậm trễ. Lý do được nêu lên cũng có thể hiểu được. Đó là viêc ngoài ý muốn.
Nghe xong tôi rất mừng vì như vậy là chàng không oán giận gì chúng tôi nữa.
Nói xong chàng lơ đãng nhìn ra hai bên bờ sông như nghĩ ngợi một điều gì.
Tôi thấy có thiện
cảm với người đàn ông này và muốn ngồi bên
để nói chuyện với chàng mãi.
“Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt.
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Đọc
xong mấy câu thơ trong bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm rồi chàng hỏi tôi:
- Chị
có nhớ bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
không, cũng nói về cảnh sông nước, bài thơ này hay lắm?
- Anh cứ gọi em là Ngân. Ngân có biết bài
này nhưng không thuộc. Em cũng mới thích
thơ văn mấy năm nay thôi. Ngày xưa bận quá, bây giờ em mới có nhiều thì giờ. Anh
ngâm thơ cho Ngân nghe được không ?
- Tôi thích đọc thơ chứ không thích ngâm
thơ. Đọc thơ người nghe thấy rõ được lời và ý của bài thơ, còn ngâm thơ người
nghe mải chú ý đến âm thanh và tiết điệu nên đã bỏ quên ý và lời.
Rồi chàng đọc nhỏ đủ cho tôi nghe:
“
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng…
*
Không bóng hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Chàng vừa đọc xong bài thơ của
Huy Cận thì thuyền cập bến. Đoàn chúng tôi lên bờ để đến cung điện Hoàng Gia Thái
Lan. Tôi muốn được đi tiếp bên chàng để nói chuyện, nhưng giữ ý, chàng tách ra
rồi đi với người bạn của chàng. Tôi hiểu là chàng không muốn có sự hiểu lầm với chồng tôi. Riêng tôi thì không
ngại. Tôi với chồng tôi bây giờ chỉ còn coi nhau như bạn. Chúng tôi đã thỏa thuận
với nhau đi chơi lần này về sẽ hoàn tất thủ tục ly dị nhưng vẫn cố gắng giữ
giao hảo tốt với nhau. Căn nhà ở bờ biển San Diego đang rao bán. Chúng tôi lấy
nhau đã gần 25 năm từ khi tôi 18 tuổi lúc còn ở Việt Nam. Mẹ tôi bảo lấy chồng
thì tôi lấy. Tôi lấy chồng rất tự nhiên như tôi phải ăn phải uống vậy. Tôi sống
ở vùng quê, đa số các cô gái đều như thế. Có người đến hỏi và bố mẹ bằng lòng là
xong. Tôi không quen và không yêu chồng trước
khi lấy. Lấy nhau xong chồng tôi cùng mấy người trong xóm đóng tàu vượt biên và
đến được Thái Lan rồi vào Hoa Kỳ. Cũng có thể mẹ tôi thấy chồng tôi sắp đi Mỹ nên
vội cho tôi đi lấy chồng. Tôi không yêu chồng và chồng tôi hình như cũng không
yêu tôi nhưng chúng tôi vẫn ăn ở với nhau để đợi con tôi lớn. Nay con tôi đã lập
gia đình và ra ở riêng. Tôi chưa bao giờ thích một người đàn ông nào khác. Nhưng
đây là lần đầu tiên tôi để ý đến một người đàn ông lạ. Tôi như bị người đàn ông
này cuốn hút, tôi cảm thấy bị lao theo hấp lực của chàng. Tôi không hiểu được tôi,
từng này tuổi đầu mà còn quá ư lãng mạn. Có thể từ trước đến giờ tôi không có tình
yêu chăng ? Mải nghĩ ngợi nên phái đoàn chúng tôi vào đến cung điện Hoàng Gia lúc
nào không hay.
Cung điện Hoàng Gia Thái thật đẹp. Dân chúng
Thái Lan rất tôn sùng và quý trọng nhà vua,
vua là biểu tượng của vương quyền, của linh hồn và sự đoàn kết quốc gia.
Trong khi 3 quốc gia là Việt, Miên, Lào bị cảnh chiến tranh, bị ngoại bang xâm
lược thì nước láng giềng Thái Lan vẫn luôn giữ được hoà bình và độc lập. Buổi tối
chúng tôi được đưa đến một nhà hàng sang trọng, có vũ và xiếc, đặc biệt có những
nữ ca sĩ mặc áo dài rất đẹp lên hát, họ là những người con trai được giải phẫu
thành gái. Khi chúng tôi ngồi ăn họ đến từng bàn đưa nước và cũng là để chúng tôi
thấy tận mặt.
Sáng hôm sau tôi đến ngồi ăn với chàng và gia
đình người bạn của chàng. Vì ngồi chung đám đông nên chàng vui vẻ nói chuyện với
tôi rất tự nhiên, không e ngại như trước. Ăn sáng xong chúng tôi ra bờ biển
Pattaya để đi tàu ra một hòn đảo ngoài khơi. Tôi sợ chóng mặt nên xuống trước và
ngồi ghế ở mui tàu. Một lát chàng đến ngồi bên tôi. Chàng giải thích:
- Ngồi ở dưới hay bị chóng mặt, ngồi đây đỡ
hơn.
- Ngân cũng vậy. Ngân hay bị chóng mặt nên
phải nhận chỗ này trước.
Trời hôm đó có gió lớn nên sóng biển rất mạnh,
con tàu lắc lư khiến tôi nhiều lần phải vồ lấy chàng cho khỏi ngã. Chàng bảo tôi:
- Ngân không sợ, tôi ngồi bên ngoài nếu Ngân
ngã đã có tôi
Tôi húng hắng ho, chàng lấy ở trong túi quần
hai viên kẹo ho đưa tôi:
- Kẹo ho này hay lắm, Ngân ngậm là hết ho
ngay. Nhớ là ngậm chứ đừng nhai.
Tôi nhận kẹo ho và nói cám ơn chàng. Kẹo
ho của chàng hay thật, tôi ngậm và hết ho ngay. Lòng tôi như chùng xuống. Đã lâu
lắm bây giờ tôi mới được người đàn ông xa lạ săn sóc. Tôi mong được ngồi như thế
này mãi nhưng rồi tàu đã tới bến. Đoàn chúng tôi đi bộ ra bãi tắm. Biển thật đẹp,
khách du lịch ra đây tắm rất đông. Người hướng dẫn nói chúng tôi chơi ở đây khoảng
3 giờ rồi trờ vào bờ. Nơi đây bán đủ thứ đồ biển như tôm, cua, sò, bắp luộc, dừa
tươi… Tôi dạo quanh để tìm chàng nhưng không thấy. Tôi ngồi với chồng nhưng không
có chuyện gì để nói nên lơ đãng nhìn ra ngoài biển xem du khách tắm. Toán chúng
tôi không ai tắm cả. Khoảng nửa giờ sau chàng đến và đưa chúng tôi chiếc bánh.
Tôi chỉ chiếc ghế bên cạnh mời chàng ngồi nhưng chàng từ chối và nói chàng đã
thuê ghế và ngồi với bạn chàng ở ngoài kia rồi. Tôi bóc bánh ăn và thấy nó ngon
làm sao. Bên ngoài sóng vẫn dâng cao, những ngọn sóng bạc đầu tung toé trên mặt
nước.
Rồi ngày tiếp theo chúng tôi đi cỡi voi, đi
xem những con thú làm trò như người chui vào miệng cá sấu, con voi quỳ lạy khách,
con hổ nhẩy qua lửa…nhưng tôi không mấy thích vì không được đi riêng với chàng.
Bữa ăn tối cuối cùng đoàn chúng tôi được dẫn đến nhà hàng sang trọng, trên tầng lầu cao nhất của
thủ đô Bangkok. Chàng ngồi đối diện với tôi, không biết tôi lúng túng hay vô ý, tay tôi hất mạnh vào ly nước và bắn
vào quần áo chàng. Tôi nói lời xin lỗi, chàng trách tôi nhẹ nhàng, tình tứ:
- Đang lạnh bên trong bây giờ lại lạnh thêm
bên ngoài nữa.
Tôi thấy ân hận và thương chàng quá. Trong
lòng chàng đang buồn hay chàng đã yêu tôi nên mới nói câu đó. Tôi muốn được lau
chỗ ướt trên quần áo chàng nhưng không dám. Tôi dự định sẽ nói cho chàng biết tình
trạng của tôi hiện tại cho chàng bớt ngại nhưng không có dịp. Khi ăn uống đã no
tôi ra ngoài sân thượng của nhà hàng nhìn xem Thủ đô Bangkok về đêm. Cảnh trí
thật nên thơ, đêm nay là đêm cuối cùng, mai phải chia tay, về Việt Nam mỗi người
đi một hướng. Tôi liều vào gọi chàng ra đứng nói chuyện và ngắm phong cảnh với
tôi. Bên ngoài trời đầy sao. Tôi thèm được nghe lại một câu đã trở thành sáo ngữ
của nhiều người: “ Nếu em đếm trên trời có mấy vì sao thì anh còn yêu em nhiều
hơn thế nữa”. Tôi muốn nói hết mọi chuyện cho chàng biết thì bất ngờ bạn chàng
theo ra, tôi đứng sát bên chàng và nhờ chụp cho tôi với chàng một tấm hình. Tôi
muốn được chàng ôm tôi và đứng sát bên tôi, nhưng chàng chỉ mỉm cười và chiều ý
tôi để cho người bạn chụp hình. Đêm hôm đó về tôi ngủ rất ít và mong cho đến sáng.
Tôi đự định bữa ăn điểm tâm buổi sáng ở Chaophaya Park Hotel tôi sẽ săn sóc chàng,
tôi sẽ lấy thức ăn cho chàng để cho chàng biết là tôi đã yêu chàng. Buổi sáng tôi
dậy thật sớm để trang điểm và đến nhà ăn mong được gặp chàng. Nhưng tôi ngồi đợi
mãi không thấy chàng tới ăn. Ăn xong tới giờ để lên xe ra phi trường về Việt
Nam vẫn không thấy chàng. Tôi hỏi người bạn của chàng thì được trả lời là chàng
đã xuống ăn từ trước không hiểu sao không thấy. Khi chúng tôi đi ra chàng đã đứng
ở bãi đậu xe, tôi mừng quá nhưng thấy thương chàng vì chàng không được ăn sáng.
Tôi đi lại bên chàng và hỏi: “Anh quên không ăn sáng ?”. Chàng trả lời là chàng
đã ăn sáng ở phòng ăn bên cạnh vì khách sạn có 2 phòng ăn, chàng quên không nhớ
lời dặn là ăn ở phòng ăn nào.
Ra tới phi trường tôi muốn có sự liên lạc
nên nhờ chàng chụp hình và tôi ghi địa chỉ cùng số điện thoại cho chàng và hỏi
số điện thoại của chàng. Ngồi đợi ở phi trường chàng nói “ Về Sài Gòn nếu gặp
quý vị thế nào cũng mời đi ăn kem, lúc đó chắc vui lắm”. Chàng nói chung cả đám
nhưng tôi nghĩ là chàng muốn nói với tôi. Rồi chúng tôi chia tay để lên máy bay
và không còn gặp nhau nữa. Hơn hai tuần lễ ở Việt Nam chúng tôi đi Vịnh Hạ
Long, chùa Hương Tích, Nha Trang, Đà Lạt, thăm chợ hoa ngày Tết, chợ hoa trong
công viên Tao Đàn, trên đại lộ Nguyễn Huệ… đi khắp nơi tôi đều mong gặp lại chàng,
mong được gặp chàng trên phố Sài Gòn để được ăn kem như chàng hứa, nhưng tôi không
thấy chàng đâu. Trong khi đó người dân trong nước tấp nập sửa soạn đón Xuân.
Thời gian ở Việt Nam trôi qua thật nhanh, mùa
Xuân trên quê hương không còn như xưa nữa.
Tôi
như lạc lõng giữa những ồn áo, náo nhiệt. Tôi trở về Hoa Kỳ và mong thư cùng điện
thoại của chàng nhưng mãi không thấy. Đợi lâu nóng lòng tôi gọi điện thoại cho
chàng nhưng điện thoại chỉ có máy trả lời bằng giọng người đàn bà nên tôi tắt máy.
Tôi nôn nóng chờ đợi thư hoặc điện thoại của chàng thêm một thời gian nữa nhưng
vẫn không có tin tức, tôi bèn gọi lại lần thứ hai rồi lần thứ ba. Cũng như trước,
vẫn giọng người đàn bà nói trong máy ghi âm. Tôi e ngại không dám nói tiếng Việt,
tôi nói tiếng Anh: “làm ơn gọi số điện thoại…”. Tôi hy vọng chàng nghe và nhận
ra số điện thoại của tôi. Nhưng vẫn bặt vô âm tín. Tôi không hiểu được chàng, tại
sao chàng lại vô tình với tôi như thế khiến tôi phải chờ tin chàng ngày này qua
ngày khác. Có thể tôi tưởng tượng hơi nhiều chứ chàng không có tình ý gì với tôi
cả vì chàng có hứa hẹn gì với tôi đâu ? Nếu thích tôi chàng đã gọi và gửi hình
cho tôi ?.
Rồi bất ngờ tôi ốm, lần đầu tiên trong bao
nhiêu năm bây giờ tôi mới bị ốm. Tôi không đi làm được và phải nghỉ để dưỡng bệnh.
Chồng tôi lo lắng và xin nghỉ hè để ở nhà săn sóc tôi. Chồng tôi lấy khăn nóng
lau mặt cho tôi mỗi buổi sáng rồi nấu cháo cho tôi ăn. Tôi chợt bừng tỉnh. Chỉ
có người đàn ông ngồi bên tôi bây giờ mới là người yêu tôi nhất. Trước giờ tôi
vẫn nghĩ chồng tôi là người khờ khạo, ba phải và thờ ơ với tôi, nay tôi mới nhận
thức được đâu là tinh yêu chân thật. Tôi bảo chồng tôi đưa cho tôi cuốn sách nhỏ
trong đó có trang giấy ghi số điện thoại của người đàn ông xa lạ tôi đã gặp nơi
Thái Lan và xé vụn ra rồi đưa chồng bỏ vào thùng rác. Tôi ngẫm nghĩ lại tuy chàng
vô tình với tôi nhưng dù sao tôi cũng cám ơn chàng đã hiểu tính bồng bột và sôi
nổi của tôi, nên đã ngăn chặn tôi lại và không dẫn tôi vào vũng lầy của tội lỗi
nữa. Một đám mây đen đã bay qua khỏi cuộc đời tôi. Tôi mừng vô cùng. Chỉ trong đường
tơ kẽ tóc tôi sẽ phạm một điều sai lầm lớn.
Tôi cảm thấy khỏe hẳn lại, hình như tôi đã
khỏi bệnh. Tôi kéo chồng tôi xuống bên tôi rồi đặt chiếc hôn lên trán chồng. Chồng
tôi rất ngạc nhiên vì đã lâu lắm chúng tôi không hôn nhau, không nói với nhau
những lời yêu đương nồng nàn. Tôi nói trong nghẹn ngào: “ Em cám ơn anh. Xin anh tha lỗi cho
em. Em yêu anh, em mãi mãi là của anh...”. Chồng tôi không hiểu tại sao tôi lại
có sự thay đổi như vậy nhưng cảm động nắm chặt tay tôi và nói: “ Anh yêu em.
Anh mong em chóng khỏi bệnh và chúng mình sẽ không xa nhau nữa ”. Nước mắt tôi
chảy ra, vài giọt lệ lăn trên má. Chồng tôi lấy khăn thấm nước mắt cho tôi.
Trời đã vào đêm, ánh trăng rằm chiếu qua cửa
sổ. Tôi đứng dậy và cảm thấy người khoẻ hẳn ra. Tôi giắt tay chồng đi lên sân
thượng. Nhìn ánh trăng lấp lánh trên mặt biển chồng tôi rất vui mừng và nói sáng
hôm sau sẽ gặp chuyên viên địa ốc để hủy bỏ hợp đồng không bán căn nhà này nữa.
Tôi đứng tựa vai chồng nhìn ra xa, bên ngoài tiếng sóng vỗ rì rào như một điệu nhạc reo
vui...
SAU CUỘC
CHIẾN
Trích trong truyện dài “DẤU THỜI GIAN”
của Hòang Nguyên Linh trang 270-280.
Nga và Phượng đang nói
chuyện với Ngọc thì Khánh tới. Muốn Ngọc được tự nhiên với Khánh nên hai bạn
chỉ nói một vài câu xã giao rồi đứng lên ra về. Khi hai bạn đã đi rồi, Ngọc hỏi Khánh:
-
Anh mới được về ?
-
Anh về ban trưa và đến em ngay. Em vẫn khỏe chứ ?
-
Cám ơn anh, em bình thường.
-
Có
gì lạ không em ?
Ngọc
cười, lần nào Khánh cũng có câu đó:
-
Dạ
không. À có anh.
Khánh
hơi hoảng:
-
Cái gì đó cho anh biết với ?
-
Bí mật !
-
Sao ghê gớm thế ? Em nhất định dấu anh à ?
- Nói đùa anh đó. Tại anh hứa kể cho em nghe
câu chuyện thương tâm ở đơn vị anh mà anh chưa kể.
-
Một lát nữa thế nào anh cũng kể em nghe
Khánh xoa nhẹ vào má thằng bé mà Ngọc đang
bế trên tay rồi hỏi:
-
Con cô bạn của em đây phải không ?
-
Vâng. Con chị Phượng đó. Anh xem ngày sau nó học có giỏi
không ?
Khánh vô tình nói:
-
Cháu bé đẹp quá, trông giống chú Vinh ghê, nhất là đôi
mắt và cái miệng.
-
Vậy hở anh ? Chị ấy sắp đi lấy chồng nên cho em thằng bé
này. Em yêu nó lắm và đã nhận nuôi.
Khánh bế thằng bé và hỏi Ngọc:
-
Tên cháu là gi ?
-
Quang. Nguyễn Huy Quang.
-
Anh cũng định có con đặt tên là Quang.
Ngọc nhí nhảnh:
-
Thế như anh ! Bao giờ lấy vợ nhớ cho Ngọc ăn cỗ với đấy
nhá.
-
Tùy em quyết định, em muốn ăn cỗ lúc nào cũng được.
-
Ồ thích nhỉ.
Khánh nhận xét:
-
Hôm nay em có vẻ vui nhiều và đẹp nữa.
Ngọc làm nũng:
-
Tại lâu anh không về đó. Bao giờ anh phải trở lại đơn vị
?
-
Sáng mai anh đi sớm.
-
Còn cô An, em của anh có được khoẻ không ?
-
Cô ấy không được khoẻ lắm. Có lẽ mai mốt cũng vào Sài Gòn
và đến Từ Dũ nhờ em.
Ngọc nhớ lại ngày đi chơi với An và Khánh
ngoài bãi biển Vũng Tàu rồi nói:
-
Chóng quá anh nhỉ. Mới ngày nào còn đi học bây giờ đã có
chồng, có con rồi. Chỉ em là vẫn thế…
Khánh hạ thấp
giọng:
-
Anh lúc nào cũng ở bên chờ đợi em, mong em đừng từ chối
-
Em chỉ sợ là không biết có xứng đáng với anh không thôi.
Đây là ý nghĩ chân thành nhất xin anh hiểu cho em. Trước giờ em vẫn lẩn tránh
anh cũng chỉ vì nghĩ như thế.
Khánh sung sướng
vuốt lên mái tóc Ngọc:
-
Em
! Em đừng nói như vậy. Anh lúc nào cũng quý mến em
Ngọc nhìn Khánh thật đáng yêu và nói
trong xúc động:
-
Em
không cha, không mẹ, chỉ có một thân một mình. Em xin anh một điều thôi
-
Em cứ nói.
-
Cho em được nuôi và thương yêu thằng bé này như con đẻ
cho đến khi nó lớn.
Khánh cười:
-
Tưởng cái gì chứ. Chắc em thấy nó giống chú Vinh nên qúy
mến phải không?
-
Vâng. Anh phài cam đoan với em không rồi ngày sau hành
hạ nó tội nghiệp.
-
Anh
cam đoan với em. Anh vừa nhìn thấy đã thích rồi.
Khánh nói tiếp để đùa Ngọc:
-
Thế
là chúng mình có con trước rồi đó. Em bắt nó gọi anh bằng “cậu” nũa nghe không
?
Ngọc cười chế Khánh:
-
Gọi bằng “thầy” chớ anh?
-
Em
lại chế nhạo anh rồi. Ở quê ngoài Bắc thường gọi thế, nhưng thôi bây giờ gọi
“ba, má” hay “bố, mẹ” cho tiện.
Ngọc hỏi lảng sang chuyện khác:
- Nãy
anh hứa sẽ kể em nghe chuyện ở đơn vị anh ?
- Ngồi
xuống đi anh kể đây:
“Hai tháng trước tại vùng chiến thuật của
anh, sau trận giao tranh khốc liệt, quân ta đã tòan thắng, không ai bị chết,
chỉ có một số nhỏ bị thương nhẹ. Trong khi ấy quân địch bị thua nặng, Cả đại
đội của địch bị tan rã hòan tòan. Tất cả đại đội anh đều reo mừng chiến thắng
và chờ đợi một cuộc khao quân lớn. Tin vui vừa nở trên môi mọi người từ binh sĩ
tới cấp chỉ huy thì bất ngờ tin buồn ập tới. Bên ta bắt được một số tù binh
trong đó có hai bị thương, một người cụt tay, người kia cụt hai chân và mù một
mắt. Sau khi xem xét giấy tờ vị Đại úy chỉ huy trận đánh mới nhận ra chính
người thương binh cụt hai chân và mù một mắt là em trai út của ông ta mà hồi di
cư còn kẹt lại ngoài Bắc không vào Nam được. Người em ở lại ngoàì Bắc đi lính
cho phe bên kia, ngườì anh vào Nam đi lính cho phe bên này. Hai bên đánh nhau, mỗi người ở một giới
tuyến. Nhìn thấy em bị cụt hai chân và mù một mắt do chính đơn vị ông ta chỉ
huy bắn vào nên vị Đại úy này đã ngất xỉu đi. Hiện giờ vị Đại úy đó như một
người mất trí, lẩn thẩn không biết gì nữa…”
Ngọc nghe Khánh kể xong, nàng thở dài:
-
Tội
nghiệp ông ấy quá !
- Đó
chỉ là một trong nhiều trường hợp của người dân mình, một hậu quả của chiến
tranh, không ai mong muốn mà vẫn phải làm.
Ngọc bảo Khánh:
-
Cuộc đời buồn thật anh nhỉ. Hình như trong mỗi con người đều có những
nỗi khắc khoải khác nhau, nhưng chúng ta vẫn cứ phải kéo lê cuộc sống từ thế hệ
này đến thế hệ khác. Đâu mấy ai có đủ can đảm lìa bỏ cuộc sống. Có lẽ đời nó
phải có tất cả điều vui cũng như nỗi buồn mới tạo thành sức nhiệm mầu để lôi
cuốn con người ở lại. Nếu giả sử cuộc đời này toàn màu hồng, chỗ nào cũng tốt
đẹp hết, tất cả là thiên đường con người chưa chắc đã ham sống. Anh thấy chưa,
trong món ăn lúc người ta thích ngọt bùi nhưng cũng có lúc thích cay với đắng
để cho thêm hương vị. Nhiều lúc em nghĩ cay đắng ở đời có khi chỉ là hương vị
gíup con người có hứng thú sống.
Khánh bảo Ngọc:
-
Em lại lẩm cẩm rồi
- Có lẽ em lẩm cẩm thật. Nhiều lúc em tự hỏi
tại sao em không thù ghét đời, em không chán đời. Tự tử quyên sinh có hơn
không, em lại tiếp tục kéo lê cuộc sống trong khi em chỉ còn cô độc một mình.
Tất cả những người thân yêu nhất của em đã mất đi vì chiến tranh do chính con
người tạo ra. Chiến tranh tàn ác đã cướp đi của em bao người thương yêu…
Khánh sợ nói chuyện chiến tranh mãi sẽ gợi thêm
nỗi buồn nơi Ngọc, nên chàng hỏi sang chuyện khác:
-
Anh
nghe cô An nói em ở trong hội “ Bạn người mù” phải không ?
-
Vâng.
Gần những người tàn tật em thấy có nhiều bổn phận và cần phải sống hơn để giúp
đỡ họ.
-
Em
có tinh thần xã hội cao, như vậy nghề nữ hộ sinh rất hợp với em.
- Anh
thấy không, em mồ côi cha mẹ từ nhỏ nhưng em may mắn được những người chung
quanh thương yêu. Ai cũng quý mến và tốt với em. Nhiều lúc em có cảm tưởng em
sinh ra để đón nhận tình thương của mọi người, vì vậy em nghĩ mình phải có bổn
phận đáp lại phần nào những tình thương đó.
Khánh thấy ngồi đã lâu vội đưa thằng
bé Quang cho Ngọc bế rồi nói:
-
Anh
phải đi bây giờ, còn nhiều việc cần làm lắm.
-
Bao
giờ anh mới được về?
Khánh có vẻ buồn, không muốn xa
Ngọc nhưng vì công vụ chàng không thể
ngồi lâu được. Giọng chàng như chùng xuống:
-
Hai tháng nữa em.
-
Lâu
quá anh nhỉ. Nhớ viết thư cho em.
Khánh hôn lên vừng trán của Ngọc:
-
Em
ở lại anh đi.
-
Chúc anh đi được bình an
Ngọc tần ngần đứng tựa cửa nhìn theo chiếc xe chở Khánh khuất dần sau hàng
me bên đường. Thằng bé Quang dụi tay lên mắt đòi ngủ. Ngọc bế con trở vào trong
nhà, lòng buồn mênh mang…
Nhìn thằng bé bắt đầu ngủ, Ngọc
nghĩ tới Vinh rồi đặt chiếc hôn lên trán con, lòng nàng như thắt lại. Căn nhà từ
nay trở nên vắng lạnh, buồn tênh. Nỗi cô đơn như phủ trùm lấy nàng.
Ánh sáng mờ dần đưa ngày vào đêm. Kỷ niệm tuổi
học trò đã qua đi, Ngọc nghĩ đến các bạn mới ngày nào còn vui chơi trong vùng
trời tuổi dại, hôm nay đã lần lượt vào đời hoặc tản mát bốn phương trời đầy khói
lửa điêu linh. Bất giác Ngọc thở daì…
Ngọc nghẹn nơi cổ và nước mắt
nàng tự nhiên rơi xuống mặt con khiến nó thức dậy khóc. Thằng bé khóc cái miệng
lại càng giống Vinh. Nàng ôm chặt lấy con như cố giữ gìn một báu vật và thêm
nguồn can đảm sống rồi âu yếm nói: “ Con ngoan ngủ đi cho chóng lớn để ra mặt
trận tiếp nối chiến tranh. Cha con chết nhưng nghiệp binh đao còn nặng, thanh bình
chưa trở về với quê hương nên cha con đã gửi con lại trên cõi đời này. Con phải
cố gắng làm cho xong món nợ của người”…
CÔ GIÁO NGA
Hoàng Nguyên Linh
Tôi là một cô giáo mới.
Sau khi tốt nghiệp trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn tôi nhận được sự vụ
lệnh về dạy tại tỉnh Bình Tuy, một tỉnh nhỏ ở ven bờ biển, nằm giữa Phan Thiết
và Bà Rịa.
Tôi
rời Sài Gòn vào một buổi sáng mùa Thu, thân nhân và bạn bè đều bận nên không ai
đưa tiễn. Tôi mang một va li nhỏ đựng quần áo và một số vật dụng cần thiết
không lấy gì là nặng lắm nhưng đôi chân lết bết như không nhấc lên được. Trời
hôm đó không mưa to nhưng cũng đủ làm ướt áo và tạo thêm không khí u buồn, ảm
đạm cho một chuyến đi dài.
Xe đò chạy Sài Gòn - Bình Tuy một ngày chỉ
có một chuyến. Chúng tôi 12 người mới tốt nghiệp hẹn nhau cùng đi một lượt. Xe
khởi hành lúc 8 giờ sáng nhưng 7 giờ 30 mọi người đã đông đủ. Những khuôn mặt
trẻ, tuổi 20, 21, mới rời bỏ ghế nhà trường hơn 3 tháng, mặt mày non nớt, mới
ngày nào còn hồn nhiên, vui cười nhưng hôm nay nhìn ai cũng có vẻ đăm chiêu, tư
lự. Lần đầu tiên bước chân vào đời, rời gia đình để đi đến một nơi xa lạ, có
chiến tranh đêm ngày. Chúng tôi sợ nhất
là phải qua đoạn đường Rừng Lá khá dài, nằm giữa Long Khánh và Bình Tuy, nơi
được nghe là sào huyệt của Việt Cộng, đầu óc chúng tôi càng thêm căng thẳng…
Chiếc xe đò cũ kỹ, ì ạch chạy mấy tiếng
đồng hồ rồi cũng đến Rừng Lá. Xe phải dừng lại nhiều lần cho mấy VC quá giang. Hai
chị bạn trong nhóm mang theo radio được hỏi để cho “cách mạng mượn tạm”. Nhờ có
được 2 chiếc radio, mấy VC rất mừng nên chúng tôi không bị làm khó dễ gì cả. Đi
hết đoạn đường nguy hiểm, người tài xế cho biết “các ảnh” thích
radio lắm vì sống ở trong rừng họ buồn, không được nghe cải lương và tin tức
bên ngoài. Khi chúng tôi tới tỉnh Bình Tuy trời đã về chiều, ai nấy đều thở
phào nhẹ nhõm… Chúng tôi không biết ở đâu nên đến thẳng Ty Tiểu Học trình diện
rồi tính sau. Ông Trưởng Ty già mang cặp kính cận khá dầy nhận tờ sự vụ lệnh
rồi đưa chúng tôi danh sách của 8 trường trong tỉnh cần giáo viên. Tôi và Dung
nhờ ra trường đỗ hạng cao hơn mấy người trong nhóm nên được chọn trước. Hai
chúng tôi về Hàm Tân cách tỉnh lỵ gần 5 cây số. Một vài bạn khác phải đi thật
xa như Tánh Linh, Võ Đắt. Chúng tôi được chia nhau đến ở nhà mấy đồng nghiệp
trong tỉnh để sáng hôm sau về nhiệm sở mới.
Tôi
và Dung được giới thiệu đến thuê trên lầu của một gia đình thuộc loại giầu trong quận. Nhà mái ngói đỏ, trên lầu có 2
phòng, mỗi người ở một phòng. Nhà có sân thượng nhìn ra biển rất đẹp và mát.
Tuy giá thuê hơi cao so với đồng lương nhưng chúng tôi được yên tâm về an ninh
vì ở trên lầu và hai người ở với nhau nên có thể giúp đỡ nhau khi cần.
Thế là vì sinh kế tôi đã vào đời, đỡ gánh
nặng cho bố tôi và tránh cho người dì ghẻ một cái gai trước mắt. Tôi trở thành
cô giáo trẻ của đám học trò nhỏ dễ thương. Bao nhiêu hoài bão lúc còn ở trong
trường tôi muốn đem ra thực hiện. Tôi nhìn đời với nhiều kỳ vọng là trau dồi kiến
thức cho những trẻ em nghèo nơi thôn giã. Nhưng rồi đám học trò bé nhỏ đã đưa
tôi vào thực tế của một xã hội chiến tranh, lầm than, nghèo khổ và chết chóc.
Có đứa không có tình thương và sự ấp ủ của mẹ hiền, có đứa mới ra đời đã không có
cha, có đứa cha mới chết vài ngày vì chiến tranh. Đứng bên chiếc bảng đen nhìn
đám học trò ngây thơ, đôi mắt óng ánh ngơ ngác, tôi thấy thương học trò của tôi,
và thương quê hương tôi, thương đám dân chài mỗi sáng ra khơi, thương bãi biển
Hàm Tân thật đẹp với bãi cát phẳng lì như tráng xi măng và ngọn sóng hiền hoà,
thương hàng dừa xanh, cành thông rũ bên đường. Tôi tự nguyện với lòng là sẽ cố
gắng chu toàn bổn phận của một cô giáo…
Đoạn đường Rừng Lá luôn luôn bị VC đắp mô
không lưu thông được. Quân đội giải tỏa hôm trước, hôm sau chúng đắp mô trở
lại. Chúng đắp mô rất dễ dàng, chỉ cần viết lên chiếc nón hay một tấm bìa cứng
và đề : “Hôm nay có đắp mô” rồi cắm bên đường và để một khúc gỗ chắn
ngang. Tất cả các tài xế phải tuân lệnh, nếu xe nào chạy qua sẽ bị du kích
trong rừng bắn và tài xế sẽ bị dẫn vào trong để “kiểm thảo” nên tài xế nào cũng
sợ, không dám đi qua. Tôi không về được Sài Gòn và kéo lê đời sống của một cô
gíao tỉnh nhỏ ngày này qua ngày khác. Dung vì buồn nên chỉ một thời gian ngắn
đã lập gia đình với một đồng nghiệp. Tôi hàng ngày đi dạy về là leo lên lầu,
nghe radio và đọc sách. Tôi bắt đầu cảm thấy buồn. Tôi viết thư cho bạn ở Sài
Gòn để tâm sự :
Bình
Tuy ngày 12 tháng 9 năm …
Ngọc thân,
Hôm nay
trời trở lạnh, gió biển thổi nhiều, ngồi một mình trong căn gác trọ, mình nhớ về
Sài Gòn, nhớ đến “ bà”, đến Phượng, nhớ những người quen…
Cũng ngày này năm
trước, sau lần ra đi với bao nhiêu sầu nhớ, tâm sự ngổn ngang, thân xác mệt mỏi vì cuộc hành trình quá nửa ngày trời
với gió và cát bụi mình mới nhớ ra là không ghi địa chỉ người quen. Người quen
mà không nhớ địa chỉ thế mới loạn. Đầu óc mình trống rỗng. Đến nhà bà cả cả mấy
chục lần mà số nhà vẫn không nhớ phải đề thế nào. Nay mới nghĩ ra cách là mình
viết về cho người anh họ để cầm đến cho bà.
Ngày tháng qua
đi, những ngày dài vô tận, không được biết Sài Gòn là gì, bạn bẻ ở nhà vui mạnh
ra sao và Lê Lợi mỗi chiều thứ Bảy có vắng bóng giai nhân không ?
Cuộc sống Bình
Tuy có lẽ vẫn muôn đời buồn chán, vẫn lặng lẽ trôi như những con tàu ngoài khơi
nhả khói tuần tiễu duyên hải từ ngày này qua ngày khác. Thanh niên ở đây thì đủ
sắc thái, người vui hưởng hạnh phúc gia đình với vợ ngoan và đứa con đầu lòng
xinh đẹp, kẻ vào trong trường những giờ ra chơi ngồi đọc và viết thư cho người
yêu, có người đánh bài thâu đêm để lấp đi những khoảng trống tâm hồn. Bọn con gái
vì buồn, vì xa nhà nên hóa ra liều lĩnh, sống bừa bãi, hùa theo nếp sống đàn
ông, nhưng trái lại cũng có kẻ ngồi buồn cô độc, mơ về tình yêu ở tận phương
trời xa xôi gần như tuyệt vọng. Họ đi lang thang trên những con đường mòn sỏi
đá hay trên bãi biển trong những buổi chiều tà nhạt nắng. Gió lộng thổi, hơi
lạnh len lỏi vào tận buồng phổi, con tim, lúc đó những kẻ xa nhà mới giật mình
run sợ cho kiếp sống độc hành …
Trường mình
dạy ngay sát bờ biển. Xung quanh trường có hàng dừa xanh. Trước mặt trường biển rộng bao la, sau lưng là núi đồi trùng
điệp, rừng xanh bát ngát. Bình Tuy toàn rừng, ruộng vườn rất ít. Dân đa số sống
bằng nghề chài lưới. Những ngày biển động người dân rất khổ sở vì họ không kiếm
đủ miếng ăn…
Mải nói chuyện
quyên không hỏi thăm. Bà ở nhà lúc này ra sao ? Có nhận được thư từ của anh
Khánh đều không ? Mình thì vẫn thế, vẫn giậm chân tại chỗ, nhưng mình
không muốn trở thành cô giáo già nơi tỉnh lẻ, mình cũng lại sợ lấy chồng vì lấy
chồng thời chiến tranh mình không muốn chít vành khăn trắng đi sau chiếc xe
tang khi tuổi đời còn son trẻ, không muốn đứa con thơ ra đời không có cha…
Nhưng số mệnh có lẽ đã an bài, mình cũng phải đi đến quyết định thôi, không lẽ “trơ
cổ thụ” mãi, người ta sẽ gọi là “gái già”.Phải không Ngọc ? Mình mới quen
một người tên Tuấn. Anh Tuấn là biên tập viên cảnh sát, mới ra trường và
được bổ về đây làm phó trưởng ty cảnh sát tỉnh này. Tất cả được kể là trung
bình nhưng hợp với mình. Nhưng thôi, chuyện
còn mới lắm, có gì lạ sẽ cho bà biết sau.
Ngọc thân mến,
Thế là cuộc
sống của mình trong chốc lát đã phải chuyển di từ thành đô về tỉnh lẻ. Lữ khách
hôm nay phải tha phương cầu thực tận phương trời xa xôi, chân trời góc biển
này. Nghĩ và nhớ Sài Gòn nên viết thư về
bà cùng cho gửi lời thăm đến những người thân.
Đêm đã về
khuya, trước khi dừng bút chúc bà gì bây giờ nhỉ ? Thôi thì cầu mong được
vui mạnh luôn.
Thân mến,
Phương Nga
Vì buồn và cô đơn, tất cả bạn bè đều đã
lập gia đình nên Tuấn đến với tôi không mấy khó khăn. Hai tâm hồn đang cô đơn
nên dễ dàng kết hợp. Quen nhau được 3 tháng thì chúng tôi làm đám cưới. Tôi
viết thư về xin phép bố cho đúng phép chứ thực ra tôi biết bố tôi cũng chẳng có
ý kiến gì, tôi muốn lấy ai thì lấy. Ông là một Trung Tá bộ binh, thì giờ không
có lại bị người vợ kế kèm bên, biết tôi
đi lấy chồng là ông mừng rồi.
Ngày đám cưới của tôi với Tuấn rất đơn
giản, chúng tôi tổ chức ngay tại tỉnh Bình Tuy. Vì chiến tranh và giao thông
cách trở nên cả Tuấn và tôi không có thân nhân từ Sài Gòn ra tham dự. Ông
Trưởng Ty Tiểu Học đại diện cho nhà gái và ông Trưởng Ty Cảnh Sát đại diện cho
nhà trai. Hai ông Trưởng Ty đại diện đến nhà thuê của Tuấn chứng kiến chúng tôi
trao nhẫn cho nhau. Một số ít bạn bè cùng tới dự. Ăn bánh và uống nước trà
chừng 1 giờ sau chúng tôi đến nhà hàng trong tỉnh đẻ ăn mừng đám cưới với sự
tham dự của hầu hết các giáo chức trong ty Tiểu học và nhân viên trong ty Cảnh
sát. Chúng tôi được nghỉ một tuần rồi đi làm trở lại.
Tôi hạnh phúc bên chồng và nghĩ rằng sẽ
được sống những ngày êm đềm như bao cặp vợ chồng khác, chúng tôi sẽ có con và
nuôi cho con khôn lớn. Tôi đang nhìn đời bằng một màu hồng rực rỡ thì bất ngờ
tai ương xẩy đến. Chồng tôi đi công tác ở quận Tánh Linh bị VC phục kích bắt 4
người trong xe. Một tháng sau người tài xế là dân địa phương được thả về, chổng
tôi và 2 cảnh sát khác bị mang vào trong rừng rồi không có tin tức gì nữa …
Tôi quá đau buồn và không còn tâm trí nào
có thể tiếp tục dạy học nữa. Tôi đã sợ đeo vành tang trắng thì nay tôi phải để
tang trong lòng. Tuấn bị giết hay bị cầm tù ? Chết hay cầm tù cũng khổ như
nhau. Tuấn ơi, em đâu ngờ có ngày hôm nay, em đâu ngờ đã phải xa anh quá sớm
khi tình yêu còn đang mặn nồng. Tôi muốn về Sài Gòn rồi làm bất cứ việc gì chứ
tôi không thể ở đây cho nỗi buồn gậm nhấm, nhưng không có cách nào có thể ra đi
được. Cả tỉnh Bình Tuy coi như đã bị bao vây. Cuộc chiến mỗi ngày một khốc
liệt, lần lượt các tỉnh phiá Bắc lọt vào tay VC. Mỗi tối tôi nghe đài BBC để
biết tin tức. Sự thất thủ Sài Gòn theo đài này được tính từng ngày chứ không
phải hàng tuần hay hàng tháng nữa. Ngày 27 tháng 4 năm 1975 ông cố vấn Mỹ
(Smith) trong quận Hàm Tân bất ngờ đến tìm tôi. Ông Smith biết ơn tôi vì tôi đã
giúp đỡ ông thông ngôn cho các viên chức trong quận không biết tiếng Anh khi
người thông ngôn của ông vắng mặt, đôi khi ông còn nhờ tôi dịch lại mấy giấy tờ
viết bằng tiếng Việt ra tiếng Anh. Ông đến chào tôi để từ biệt và nói ông được
lệnh phải đi ngay, không bao giờ trở lại nữa. Ông cho biết khoảng hai giờ sau máy
bay trực thăng đến đưa ông đi, nếu tôi muốn về Sài Gòn thì đi với ông. Tôi suy
nghĩ giây lát rồi nhận lời. Tôi thấy rằng dù tôi có ở lại cũng không giúp ích
gì cho việc thả chồng tôi, nếu mai mốt mất nước vào tay VC tôi chưa chắc đã yên
thân vì tôi thông ngôn cho Mỹ, họ sẽ kết án tôi là làm CIA, còn việc dạy học
thì tôi không có tâm trí nào để tiếp tục nữa. Tôi sang gặp ông Hiệu trưởng xin
phép cho tôi về Sài Gòn nói là có việc bận và nhờ ông trông coi lớp cho tôi,
nói xong tôi đi ngay cho ông không kịp giữ lại. Tôi về căn nhà mới thuê từ ngày
chồng tôi bị bắt để lấy một số vật dụng cần thiết và trả tiền thuê trước cho
chủ nhà rồi ra sân bay ngay bên cạnh nhà. Chiếc trực thăng đáp xuống, ông Smith
và tôi vào trong máy bay. Máy bay xuống phi trường Vũng Tàu lấy thêm
nhiên liệu rồi về thẳng Sài Gòn. Ông Smith dẫn tôi vào căn cứ DAO của Mỹ ở Tân
Sơn Nhất. Tại đây tôi nhìn thấy rất nhiều gia đình đang đợi để lên máy bay đi
Mỹ, những người này phải có giấy giới thiệu đặc biệt mới vào được đây, ông
Smith giải thích với tôi như vậy. Ông Smith ngỏ ý nếu tôi muốn đi Mỹ ông sẽ nói
với trưởng cơ quan của Mỹ tại căn cứ này. Khoảng 10 phút sau ông trở ra tôi sẽ trả lời cho ông biết dứt khoát. Tôi nghĩ
ngợi, nếu về Sài Gòn tôi sẽ ở đâu ? Bố tôi đang hành quân ngoài mặt trận còn người dì ghẻ thì
tôi không thích và bà ta cũng không muốn gặp tôi. Tôi còn đang phân vân thì gặp
gia đình chị bạn cùng lớp với tôi năm Đệ Nhất trường Trưng Vương đang đợi gọi tên
để lên máy bay. Tôi nói chuyện và kể hoàn cảnh của tôi cho chị nghe, chị khuyên
tôi nên đi vì biết bao nhiêu người muốn đi Mỹ mà không được. Ông Smith trở ra,
tôi nghe lời khuyên của chị bạn nên nhận lời. Ông Smith bắt tay tôi và nói : “Chúc may
mắn, tạm biệt”. Tôi cám ơn ông rồi không biết ông đã nói gì với nhân viên trong
căn cứ DAO và người này đích thân dẫn tôi đến cửa chiếc máy bay C130, đợi tôi
vào trong rồi mới đi. Nửa giờ sau những người Việt khác đã lên ngồi kín máy bay
để đi Mỹ. Mọi người ngồi xuống sàn máy bay chứ không có ghế và cũng không có
giây an toàn, Tôi ngồi cách chỗ chị bạn không xa lắm. Chúng tôi xuống đảo Guam
ở Thái Bình Dương trời đã tối. Các nhân viên Hồng Thập Tự đón tiếp chúng tôi
rất niềm nở. Chúng tôi được ăn bánh và uống nước ngọt. Sau 5 ngày tôi đến trại Campleton.
Ở đây một tuần tôi được đi định cư ở thành phố Rowland Heights thuộc tiểu bang
California. Vì tôi có một mình và biết tiếng Anh nên việc định cư của tôi rất
dễ dàng. Bà bác sĩ Marylin Rubin, một hội viên của nhà thờ và cũng là giáo sư
của trường Đại học Y khoa đã săn sóc tôi. Tôi được ở căn chung cư một phòng ngủ
với đầy đủ tiện nghi. Ba ngày sau Bà bác sĩ Marylin Rubin dẫn tôi đi khám sức khỏe. Sau
kết quả thử máu và nước tiểu cả bà bác sĩ và tôi đều giật mình vì tôi đã mang
thai. Tôi lo lắng không có tiền đi bác sĩ và tiền nhà thương rất tốn kém. Bà
Rubin trấn an tôi là đừng lo lắng nhiều vì là dân tị nạn chính phủ sẽ giúp, nhà
thờ cũng như tôi không phải bỏ ra đồng nào cả. Tôi không hiểu gì nhưng cố gắng
tin lời bà nói.
Tôi được giới thiệu đến làm cho một trung
tâm giữ trẻ vì nhà thờ biết ở Việt Nam tôi đã làm nghề dạy học. Tôi nghĩ công
việc này cũng hợp với tôi vì sau này sinh con tôi có thể vừa đi làm vừa trông
con được. Tôi nhận việc vào ngày thứ Hai đầu tuần. Nhìn đám trẻ con chơi đùa
tôi chợt nhớ đến đám học trò bé nhỏ của tôi ở trường tiểu học Hàm Tân khi xưa. Trải
qua bao biến đổi dồn dập tôi đã không có thời gian nghĩ ngợi, giờ đây tôi mới
thấy nỗi buồn xa quê hương. Tôi thương chồng tôi sẽ bị tra khảo, đánh đập, đói
khát trong gông cùm cộng sản. Liệu chồng tôi có đủ sức chịu đựng cảnh tra tấn
không. Chồng tôi đâu biết tôi đã có thai và con tôi sau này ra đời không biết
cha mình là ai. Nước mắt tự nhiên trào ra. Một đứa bé thấy tôi khóc đứng lại
nhìn, tôi vội lau nước mắt rồi đến chơi đùa với đám trẻ nhỏ…
Ngày đầu tiên đi làm đã qua mau, tôi đi bộ
về nhà. Người bảo trợ đã khéo chọn lựa, chỗ làm cách nơi tôi ở đi bộ mất 15
phút, tôi không phải phiền người đón đưa. Tôi đi làm được mấy tuần lễ thì đến
ngày lễ Độc Lập của Hoa Kỳ và được nghỉ lễ một ngày. Người ta rủ nhau đi coi
đốt pháo bông gần chỗ tôi ở, nhưng tôi không muốn đi. Sao tôi thấy quá buồn.
Tôi không còn tổ quốc để đón mừng ngày độc lập nữa. Nước tôi đã mất, tôi không
biết quê hương tôi bây giờ họ tổ chức lễ độc lập vào ngày nào ? Tháng Tư
đen hay tháng Tám, tháng Chín, tháng Mười ? Bây giờ được ”giải phóng” nhưng người dân không có tự do, đời sống còn
cơ cực hơn lúc chưa giải phóng thì dân tôi đâu cần giải phóng. Trước kia dân
chúng tôi tụ họp 10, 20 người đâu cần xin phép, khi được giải phóng rồi tụ tập
trên 3 người nếu không có phép của nhà nước là bị phạt. Tôi cũng không hiểu như
vậy thì họ đã giải phóng dân tôi hay đã nô lệ hoá dân tôi ?. Càng nghĩ đến
những người cai trị ở Việt Nam tôi càng lo cho chồng tôi không biết giờ này anh
ra sao. Anh ơi em nghe người ta nói VC họ ghét cảnh sát công an lắm. Anh làm
sao chịu đựng nổi những trận đòn thù, tra khảo. Anh mới ra trường chưa được một
năm đã làm gì có tội với họ. Sống ở bên anh em biết anh chưa giết một người nào
cũng như chưa hại một ai. Anh tốt quá và anh hiền quá sao anh lại vào nghề cảnh
sát, sao anh không làm nghề dạy học như em để anh không bị bắt, không bị tù đày
tra tấn và anh mãi mãi bên em. Tôi cố gắng liên lạc về Bình Tuy và Sài Gòn
nhưng không được tin tức gì về chồng tôi. Trong khi đó bụng tôi mỗi ngày một
lớn. Tôi thương đứa con sắp ra chào đời sẽ không có cha. Ngày xưa đi dạy học
tôi đã thương những đứa học trò có cha bị chết vì chiến tranh, vì bom đạn. Nay
con tôi cũng như những đứa trẻ đáng thương kia, chỉ khác một điều là đời sống
vật chất của con tôi được đầy đủ hơn.
Nghỉ ở nhà hết một ngày lễ độc lập tôi đi
làm trở lại, nhìn những đứa trẻ nô đùa tôi bắt đầu cảm thấy vui. Tôi cố gắng
xua đuổi những u buồn để không ảnh hưởng xấu cho thai nhi trong bụng. Tôi tìm
mua những loại nhạc vui về nghe và cố gắng lập lại một cuộc đời mới. Rồi tôi hạ
sinh đứa con gái đầu lòng. Nhìn nét mặt con rất giống chồng tôi, người ta nói: “Gái giống
cha, giầu ba họ” không biết có đúng không nhưng tôi thấy vui vui. Ôm con vào
lòng tôi tự nhủ sẽ không bao giờ tái giá nữa, tôi sẽ cố gắng nuôi con cho thành
công trên trường đời, cố gắng giúp cho con được sung sướng. Tôi nhớ lại cuộc đời
tôi, nếu mẹ tôi còn sống thì tôi được học Dược. Tôi đã có bằng Tú Tài và thi
đậu vào trường Dược thì bất thình lình mẹ tôi qua đời. Cô gái bên cạnh nhà hơn
tôi 8 tuổi đã tỉ tê tán tỉnh bố tôi. Cô khá đẹp
và có đôi mắt tình tứ, lẳng lơ, thân hình căng tròn thật hấp dẫn thế là
bố tôi mê cô và ăn ở với cô. Cô đẹp và trẻ hơn mẹ tôi, nhìn cô rất lôi cuốn làm
sao bố tôi không mê được. Bố tôi lại có tính bay bướm, lúc còn sống mẹ đã khổ
sở vì ghen. Tôi không trách gì bố. Đàn ông gặp người đàn bà như thế làm sao
tránh khỏi đam mê. Có thể lúc mẹ tôi còn sống hai người đã nhấm nháy với nhau
nên khi mẹ tôi vừa mất họ mới đến với nhau nhanh như thế. Tôi không biết tại
sao cô ở một mình, chồng cô chết hay ly dị ? Người đàn bà như cô mà ở một
mình làm sao tránh khỏi con mắt tò mò của đàn ông. Bố tôi nghe lời cô xúi bẩy
nên không cho tôi học Dược, bắt tôi học sư phạm 2 năm để chóng đi làm có tiền,
đỡ ghánh nặng cho gia đình và có lẽ vì lòng ganh tị, cô không muốn tôi hơn cô
nhiều quá.. Tôi trở thành cô giáo, rồi cuộc đời đẩy đưa nay tôi đã trở thành
góa phụ trên đất nước Hoa Kỳ này.
Tôi xin nghỉ hộ sản ở nhà gần 2 tháng rồi
tiếp tục đi làm lại. Bà giám đốc trung tâm giữ trẻ cũng là hội viên nhà thờ nên
đã dễ dàng với tôi. Tôi mang con đến trường vừa trông con vừa trông những đứa
trẻ khác. Thời gian ba năm sau, một hôm hai mẹ con tôi vừa ở trường về thì nhận
được điện thoại của ông Smith từ tiểu bang miền Đông gọi sang. Tôi rất ngạc
nhiên không hiểu sao ông Smith biết được số điện thoại của tôi. Ông giải thích
là ông đã nhờ hội Hồng Thập Tự tìm kiếm người bảo trợ, rồi từ đó biết được số
điện thoại của tôi. Sau khi hỏi qua về tình trạng gia đình tôi ông Smith muốn
đến thăm và mời tôi đi ăn tối. Tôi rất vui mừng vì gặp lại được ân nhân nên
nhận lời. Khi gặp tôi ông mừng rỡ và tỏ vẻ săn sóc tôi một cách đặc biệt và yêu
quý con gái tôi. Lúc ăn tối xong ông đưa
quà cho tôi và con tôi rồi tâm sự là ông đã ly dị vợ năm ngoái, ông rất thích
đàn bà Việt Nam nên muốn lấy tôi làm vợ, tôi cảm thấy không vui khi nghe lời đề
nghị này, mặt tôi đỏ lên rồi cố gắng trả lời ông Smith : “Tôi cần phải
biết rõ tin tức của chồng tôi và nhất là phải nuôi con tôi cho khôn lớn, tôi
chưa thể lấy chồng lúc này được…”. Ông Smith nói : “Con cô thì không trở
ngại vì có thể đi theo mẹ và tôi cũng rất thìch con của cô”, ông hỏi lại
tôi : “Cô định đợi tin chồng cô tới
bao giờ cho tôi biết tôi sẽ đợi ”, tôi trả lời tôi không biết nhưng khuyên ông
đừng chờ đợi tôi. Tôi có đời sống riêng của tôi, tôi không muốn ràng buộc bởi
lời hứa. Tôi cám ơn ông Smith về bữa ăn tối và món quà cho con tôi, còn chiếc
nhẫn ông tặng, tôi trả lại. Tôi nói với ông là phong tục của nước tôi không cho
phép tôi nhận chiếc nhẫn của người đàn ông khác mà không phải là người yêu hay
chồng mình. Tôi không biết phong tục có như thế hay không nhưng tôi nói với ông
như vậy cho dễ từ chối. Tôi từ chối cái ôm của ông Smith, chỉ bắt tay rồi ra về.
Sau này ông Smith có gọi điện thoại cho tôi vài lần nhưng thấy tôi không
vồn vã và lạnh nhạt nên ông hiểu ý và thôi không liên lạc nữa.
Thư
từ giữa Mỹ và Việt Nam bắt đầu dễ dàng, tôi được tin từ người em họ cho biết bố
tôi bị đưa ra ngoài Bắc và đã chết ở ngoài đó, không biết vì bị tra tấn, hành
hạ hay trốn trại rồi bị bắn, còn người dì ghẻ thì đã bỏ đi lấy chồng 2 tháng
sau khi mất Sài Gòn, bà ta lấy một cán
bộ cộng sản đã có vợ ở Hà Nội vào công tác. Tin tức của chồng tôi thì vẫn mù
mịt không ai biết. Chúng tôi lại mới lấy nhau nên không biết nhiều về gia đình
bên chồng. Có thể chồng tôi đã bị thủ tiêu ngay sau khi bị bắt. Vừa nghĩ tới bố
rồi nghĩ tới chồng lòng tôi quặn đau. Tôi cầu nguyện chồng tôi được bình yên.
Hàng đêm trong giấc mơ tôi vẫn thấy chồng tôi về, có khi đi chơi với tôi, có
khi đứng chụp hình với con gái tôi…
Tôi đi làm ở vườn trẻ được lãnh lương căn
bản tối thiểu nên không đủ trả cho tiền ăn và ở. Gía thuê nhà ở California lại rất cao, nhà thờ
phải phụ giúp tôi một nửa. Các hội viên đều rất tốt nhưng tôi không muốn để họ
cưu mang tôi mãi, tôi có danh dự của tôi. Tôi cần phải có một nghề vững chắc,
có như thế tôi mới có thể tự túc được. Tôi muốn đi học Dược trở lại mà ngày xưa
đã bị người dì ghẻ ngăn cản không cho học lên. Tôi gặp bà Rubin để hỏi thăm về
chương trình học. Bà Rubin rất ái ngại, bà thấy một người đàn bà có con thơ như
tôi làm sao có thể học ra Dược sĩ được, nhưng thấy tôi cương quyết bà đã chỉ
cho tôi tên mấy trường Đại Học gần nhà như Mt. San Antonio college( Mt. Sac),
Cal Poly Pomona, Cal State Fullerton và trường Western University Pomona trong
đó có phân khoa Dược, tất cả các trường này đều cách chỗ tôi ở khoảng 10 miles.
Bà Rubin nói về tài chính cũng không quan tâm lắm vì vừa xin học bổng vừa đi
vay, khi ra trường có việc làm sẽ trả lại, vấn đề khó là đứa con ai trông coi
để đi học. Bà Rubin khuyên tôi nên học
về ngành computer vì chương trình học ngành này rất linh động, tôi có thể học
các lớp vào buổi sáng rồi chiều về nhà vừa trông con vừa học bài và ngành này
tìm việc cũng dễ. Tôi cám ơn bà rồi xin nghỉ làm một ngày để đi tìm trường và
hỏi thăm xem sao. Tôi đến gặp Counselor của trường Mt. Sac. Ông Counselor cũng
nói như bà Rubin nhưng tôi biết thêm được một số chi tiết khác như tôi có thể
xin thêm tiền trợ cấp của chính phủ và đặc biệt trường Mt. Sac có chương trình
giữ trẻ cho người mẹ là sinh viên của trường nhưng khó xin vì rất đông phụ
huynh muốn gửi con, ông khuyên tôi nên nộp đơn sớm. Tôi nghe lời khuyên của ông
nộp đơn nhập học khóa mùa Thu và xin gửi con gái vào trung tâm giữ trẻ của
trường. Trên đường về tôi ghé vào văn phòng xin tiền trợ cấp xã hội. Tôi rất
vui mừng một ngày tôi đã làm được rất nhiều việc và chỉ còn đợi kết quả. Đêm
hôm ấy tôi nằm mơ tôi tốt nghiệp văn bằng kỹ sư của trường Cal Poly và có cả
chồng tôi và con gái tôi đến tham dự, tôi mơ thấy tôi đội mũ và mặc áo tốt
nghiệp đứng chụp hình chung với chồng và con gái. Tỉnh dậy tôi thấy tiếc một
giấc mơ thật đẹp mà đã lâu tôi không có. Nhưng tôi cũng vui, như vậy có thể
chồng tôi chưa chết, tôi phải cố gắng đợi chồng tôi. Tôi cầu nguyện Trời Phật
giúp tôi có đủ nghị lực để ra khỏi những cám giỗ ở đời. Tôi cũng là một con
người, cũng có những đòi hỏi tự nhiên. Những lúc tắm để vòi nước chảy trên thân
thể tròn trịa với bộ ngực căng đầy tôi cũng có những khao khát thèm muốn được
vuốt ve bởi người khác phái, nhiều đêm lạnh nằm co ro trong chăn tôi thèm được
ôm chồng như hồi mới cưới… Nhưng tôi cầu
nguyện để quên đi và hướng về hạnh phúc của con gái tôi. Con gái tôi phải được
sung sướng trong vòng tay của mẹ để bù đắp cho lúc thiếu cha, khi đó tôi mới
nghĩ đến việc đi lấy chồng cũng chưa muộn.
Hai tháng sau sở xã hội gửi giấy báo cho
biết đơn xin trợ cấp xã hội của tôi đã được chấp thuận và cho biết số tiền tôi
sẽ được lãnh, đồng thời tôi cũng nhận được giấy báo đến thi về toán và Anh Văn
của trường Mt. Sac để họ biết trình độ và xếp lớp cho khóa học tmùa Thu. Khi có
thời khoá biểu rồi trung tâm giữ trẻ sẽ ấn định những giờ tôi được gửi, nhưng
không quá 15 giờ một tuần. Tôi đến vườn trẻ nơi tôi đã làm từ ngày đặt chân lên
đất Mỹ chính thức xin nghỉ việc 2 tuần sau đó theo đúng quy định của nơi làm
việc. Tôi gọi cho bà Rubin để báo cho bà biết quyết định đi học của tôi, bà trả
lời : “Nếu tôi muốn thì tôi cứ làm… ”, đó là cách trả lời chung khi bà không biết nói gì khác hơn.
Ngày đầu tiên đi học tại Đại học Mỹ, tôi
không có cảm giác như bài văn của Thanh Tịnh : “Hàng năm cứ vào cuối Thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có
những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nao nhớ lại buổi tựu trường….” vì
nay tôi không còn thơ ấu, tôi đã có con, hàng ngày tôi đi vội vàng gần như chạy
để gửi con trong trung tâm giữ trẻ rồi vào lớp cho kịp giờ. Con tôi rất ngoan,
mấy ngày đầu nó khóc nhưng sau quen đi và biết tôi trở lại đón chứ không bỏ đi
mất nên đã yên tâm chơi đùa với bạn bè. Tôi nhớ lại mấy năm còn ở Trung học
Việt Nam, nhìn hình ảnh, sách báo những Đại học Mỹ thật đẹp, sinh viên nam nữ
cắp sách đi bên bãi cỏ xanh mướt trong trường , tôi mong ước được đi du
học để vào một trong những trường như
thế. Nay tôi đã được đi học ở đây nhưng tôi không có thì giờ để nhìn ngắm cảnh
đẹp, không có thì giờ để mơ mộng và thả hồn theo gió mây nữa. Hết giờ là vội
vàng đi đón con, tôi chưa bao giờ được cắp sách đi tản bộ một mình dưới tàn cây
bóng mát, bên những vườn hoa hồng nở rộ hay ngồi một mình trên ghế đá để nhìn
ngắm những cặp tình nhân dạo bước đi qua. Thư viện thật lớn với đầy đủ các sách
nhưng tôi ít khi được vào ngồi trong đó. Một thoáng buồn hiện ra rồi bước chân tôi đã đến trung tâm giữ trẻ.
Con tôi vui mừng chạy ra ôm lấy tôi, tôi ký giấy nhận con và đi tìm chỗ học bài
để đợi lớp học kế tiếp. Tôi muốn được vào thư viện nhưng họ không cho dẫn trẻ
con vào nên đành phải ngồi ở những phòng trống chưa có lớp, nếu ngày nào hết
giờ thì tôi về thẳng nhà. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, hơn 2 năm qua đi,
tôi lấy được bằng Associate Degree của
Đại học cộng đồng Mt. Sac với số điểm ra trường khá cao. Tôi lên tinh thần. Tôi
nộp đơn và được nhận vào trường Cal Poly Pomona, ngành điện tử.
Khi con tôi được 5 tuổi và sửa soạn đi học
trường mẫu giáo, tôi sẽ nhập học trường Cal Poly. Một hôm tình cờ tôi dẫn con
đi chợ 99 Ranch Market gần nhà, con tôi
gặp một em bé Á Đông cỡ tuổi nó nên hai đứa nói chuyện làm quen, thấy vậy tôi
đứng nhìn 2 đứa trẻ chơi với nhau, chúng nói chuyện rất vui vẻ, bất ngờ một
người đàn bà trẻ cỡ tuổi tôi đi đến, tôi nhận ra người đó là Dung, bạn trong
trường sư phạm với tôi và đã ở chung nhà với tôi trong thời gian mới đến Bình
Tuy. Dung gặp tôi mừng rỡ, hai đứa tôi ôm chầm lấy nhau hỏi han và nói Dung ở đường
Otterbein gần trường trung học, vậy là cách nhà tôi có một đoạn đường ngắn.
Dung nói con Dung năm nay vào lớp mẫu giáo trường Killian, như thế là cùng
trường với con tôi. Tôi lái xe theo Dung về nhà cho biết. Căn nhà 3 phòng ngủ,
2 phòng tắm Dung mới mua cách đây 2 tháng. Dung mở tiệm làm móng tay và hớt
tóc, còn chồng Dung cũng là đồng nghiệp với tôi
ngày trước bây giờ là chuyên viên điện tử. Chồng của Dung về nhà lúc 2
giờ chiều nên vừa kịp đón con. Dung nói khi tôi đi khỏi Bình Tuy cả Ty Tiểu học
họ nói tôi đã lấy ông cố vấn Mỹ (Smith) và theo chồng về Mỹ, bây giờ Dung mới
hiểu tin đồn đó là không đúng. Khi tôi đi rồi mọi người xôn xao, có người chê
là chồng tôi mới bị bắt đã vội lấy chồng khác, có người tỏ ra thèm muốn vì được
đi ngoại quốc khi đất nước lâm nguy. Vợ chồng Dung và mấy người bạn rủ nhau mua
chiếc thuyền ra khơi vì họ rất sợ cộng sản, cũng may khi ra đến hải phận quốc
tế thì được tàu Mỹ cứu đưa về Phi Luật Tân, gần một năm sau được đến định cư ở
California thuộc thành phố West Covina. Dung bảo tôi mang đồ mua ở chợ về nhà
cất rồi sang ăn cơm với Dung vì chồng Dung bận đi dự tiệc cho buổi ra mắt sách của
người bạn. Tôi để con ở lại chơi với con Dung và về nhà cất đồ rồi trở lại nhà
Dung. Hai chúng tôi bây giờ mới lại có dịp nấu ăn chung với nhau. Sợ tôi quá
xúc động nên đợi ăn cơm xong Dung mới cho tôi biết cách nay hơn một năm Dung có
gặp Tuấn và mời đến nhà chơi, Tuấn cho biết khi bị bắt giam tưởng như không có
ngày về. Những người làm nghề cảnh sát, công an như Tuấn bị canh chừng rất
nghiêm ngặt. Ba năm sau ngày mất nước Tuấn bị đổi sang giam tại trại tù Hàm
Tân. Một hôm Tuấn và mấy người tù đi chặt cây trong rừng bất ngờ gặp Trang dẫn
học trò ra bãi biển cắm trại. Trang là chị bạn dạy học với tôi và Dung ngày
xưa, chị là người địa phương, vì thiếu giáo viên nên được tuyển vào dạy ăn
lương tháng chứ không phải giáo viên chính ngạch. Chị và Tuấn chỉ gật đầu chào
nhau chứ không dám nói chuyện. Em gái của Trang đính hôn với người quản giáo trông
coi các trại giam trong địa phận Bình Tuy. Trang nói em gái gọi người quản giáo
trại giam đến nhà chơi và nhờ giúp đỡ cho Tuấn. Thế là Tuấn được đối xử tử tế. Người
quản giáo cũng yêu cầu Tuấn khai lại hồ sơ của Tuấn ở đoạn là vợ Tuấn làm nghề
dạy học và đã về Sài Gòn lấy người khác ngay khi Tuấn bị bắt nay không còn liên
lạc gì với Tuấn nữa và bỏ đi chỗ vợ Tuấn cộng tác với CIA rồi trốn chạy đi Mỹ như
đã ghi trong hồ sơ trước đó. Tuấn được báo cáo học tập tốt nên chỉ thời gian
ngắn được thả ra. Tuấn đến thăm và cám ơn Trang rồi ngậm ngùi đứng nhìn ngôi
trường tiểu học nơi tôi đã dạy ngày trước và ra đi về Sài Gòn. Tuấn cũng nói
Tuấn có gửi tiền về tặng Trang, cùng em gái của Trang để cám ơn sự giúp đỡ của
họ. Em rể của Trang nay đã đổi về làm
trưởng ty công an của tỉnh Bình Tuy chỗ Tuấn làm ngày xưa. Dung cũng nói Tuấn
muốn cho tôi được hạnh phúc với chồng nên không muốn liên lạc với tôi nữa nhưng
Tuấn vẫn yêu tôi và có lẽ không muốn gợi lại những kỷ niệm xưa nên không muốn
liên lạc nhiều với vợ chồng Dung và nay không biết Tuấn ở đâu. Dung thấy tôi
ngồi buồn nên lại ôm lấy tôi an ủi : “Mình sẽ cầu nguyện cho Nga, mong anh
Tuấn sẽ hiểu Nga vẫn còn đợi chồng và hai người được đoàn tụ với nhau”. Để đánh
tan không khí u buồn, Dung chỉ hai đứa trẻ chơi với nhau và đề nghị để con tôi
về nhà Dung rồi tôi sẽ đến đón con sau. Được Dung san sẻ tôi cũng bớt buồn và
như vậy là Tuấn còn sống như tôi đã từng cầu nguyện. Tôi cám ơn Dung nhưng nói
lúc này tôi còn rảnh để tôi đón con của Dung về nhà tôi 3 ngày, còn 2 ngày kia
tôi có lớp học nên nhờ chồng của Dung. Dung còn đề nghị cho tôi thuê một phòng
nhưng tôi từ chối vì ngày xưa Dung chưa có gia đình ở với nhau thì không sao, nay hoàn cảnh đã khác, rồi lại xẩy ra sự
ghen tuông mất tình bạn bè. Lúc ra về Dung nói nhỏ bên tai tôi : “Bà mải
lo học nhưng nhìn vẫn tình tứ lắm chưa chịu lấy chồng cũng hay thật, nhìn bà
tôi còn mê nữa là đàn ông…”, người ngoài nhìn tôi như vậy làm sao tôi dám đến ở
chung nhà với ai được. Con tôi có bạn nên rất vui, tôi được yên tâm học hành,
không còn phải lo lắng gì nữa. Hai đứa trẻ chơi chung với nhau rất hòa thuận
càng tăng thêm tình bạn của tôi với vợ chồng Dung. Thời gian cứ thế qua đi tôi
tiếp tục gặt hái được kết quả tốt đẹp cho việc học.
Còn hơn tuần nữa tôi ra trường và sẽ dự lễ
tốt nghiệp để nhận văn bằng kỹ sư điện tử. Tôi cũng nhận được giấy gọi đi làm cho
một công ty điện tử ở Fullerton ngay khi tốt nghiệp.
Tôi vừa ăn cơm tối xong và đang sửa soạn
giấy mời những người đến dự lễ ra trường của tôi , sau đó mời đi nhà hàng ăn
mừng tôi tốt nghiệp như bà bác sĩ Rubin, bà giám đốc vườn trẻ và vợ chồng Dung.
Bất ngờ Dung gọi điện thoại cho tôi : “ Nga ơi ! Dung đây. Tối nay
tắm rửa sạch sẽ và mai đi mua cái giường mới nghe chưa …”. Tôi ngạc nhiên, sao
điện thoại gì lạ vậy, Dung nói tiếp: “ Khỏang 10 phút nữa vợ chồng mình
tới, có cả người bạn ở Bình Tuy nữa”, tôi chưa kịp hỏi là ai thì Dung gác điện
thoại. Tôi vội trang điểm qua loa vì có khách đến nhà. Nghe chuông điện thoại
tôi ra mở cửa, Tuấn hiện ra trước mặt,
tôi kêu lên : “Anh ! Có phải anh không ! Em không mơ chứ ! Em yêu anh
quá ! Em nhớ anh quá !”. Chúng tôi ôm nhau mừng rỡ, nước mắt tôi trào
ra rồi tôi gọi con gái. Tuấn ôm con vào lòng, con bé bén lẽn nhưng có lẽ nó
nhìn hình bố đã quen nên không chống đối. Nga hỏi sao không thấy Dung vào nhà,
Tuấn nói anh chị ấy có đến cửa nhưng đã về, chắc anh chị ấy muốn cho mình tự do
yêu nhau… Tôi trách Tuấn sao không liên lạc với tôi, Tuấn nói khi được thả ra
Tuấn đi tìm tôi nhưng mọi người đều nói tôi đã lấy ông cố vấn Mỹ nên chồng tôi
tưởng thật. Chiều nay tình cờ đi hớt tóc ở tiệm của Dung, Dung đã cho Tuấn biết tất cả. Tôi bị chồng
hiểu lầm nên nức nở khóc. Con tôi chạy lại lấy giấy lau nước mắt cho tôi và
hỏi : “Sao mẹ lại khóc ? Mẹ mong ba, nay ba đã về mẹ phải mừng
chứ ?”. Tuấn xin lỗi vì đã hiểu lầm lòng chung thủy của tôi và dỗ dành
tôi : “Em nín đi không con nó không hiểu rồi nó lại lo”. Tuy tủi thân khóc
vậy nhưng tôi cũng biết chồng tôi hiểu lầm tôi là phải. Chồng tôi bị giam trong
tù nên mang rất nhiều mặc cảm, khi nghe mọi người cùng nói như thế làm sao
chồng tôi không tin được. Rất may chồng
tôi đã gặp Dung nên chúng tôi mới được
gần nhau như hôm nay. Tôi rất vui mừng trong danh sách tham dự lễ tốt nghiệp có
thêm tên chồng nữa. Tôi ôm Tuấn chặt hơn và hôn Tuấn thật lâu để bù lại bao
nhiêu năm nhớ nhung chờ đợi và thèm hơi thở của chồng. Hôm nay tôi đã tìm lại được nụ hôn nồng ấm của chồng như ngày nào...
ĐƯỜNG VỀ QUÊ CŨ
Hoàng Nguyên Linh
Sau
bao năm đắn đo và suy nghĩ, cuối cùng tôi đã về Việt Nam. Tôi về với một mục
đích chính là thắp nén hương lên mộ mẹ, người mẹ mà trên 50 năm tôi không
gặp.
Phi cơ đáp xuống phi trường Nội
Bài Hà Nội. Tôi không có một cảm giác gì cả. Không vui, không mừng. Có lẽ
tại đi xa Việt Nam quá lâu hay tại chưa từng sống ở Hà Nội, hoặc có thể
vì nơi đây là trung tâm quyền lực đã điều khiển cuộc chiến kéo dài bao nhiêu
năm khiến cho hàng triệu người chết. Thành phố này tôi không có kỷ niệm như Sài
Gòn nên đến Hà Nội tôi cảm thấy như mình là một du khách đến thăm một xứ lạ.
Lúc chưa về Việt Nam nghe người ta
nói muốn đi dễ dàng, không bị làm khó thì bỏ 10, 20 đô la vào cái sổ
thông hành, lại có người nói nếu bỏ tiền vào đó coi chừng bị gài bẫy… cho nên
đầu óc tôi khá căng thẳng, không biết nên
chọn lựa thế nào cho đúng…
Trước kia nghe người ta tả cảnh thật
đẹp của Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường, với Hồ Hoàn Kiếm, đền Quan Thánh, Hồ
Tây, chùa Một Cột, Văn Miếu Quốc Tử Giám vân vân, nhưng nay đến Hà Nội những
nơi này không có gì lôi cuốn. Tôi ở khách sạn nằm trên phố Hàng Đường, rất
gần với chợ Đồng Xuân, ngôi chợ này không lớn như tôi tưởng, có lẽ nhỏ hơn chợ
Bến Thành trong Sài Gòn, nhưng tôi nhớ nó và muốn biết nó vì lúc mới di cư vào
Nam, bố tôi xin cho nhập học lớp Nhì trường tiểu học di chuyển Tôn Thọ
Tường. Sáng và chiều là của trường chính, chúng tôi đi học nhờ nên chỉ được xếp
vào buổi trưa. Trong giờ tập đọc cô giáo gọi lên đọc bài, bài tập đọc nói
về chợ Đồng Xuân, tôi không nhớ bài này trích từ đâu và tác gỉa là ai, nhưng
khi đọc hết bài cô giáo hỏi: “Chợ Đồng Xuân ở đâu ?”. Tôi sợ quá, lính quýnh
trả lời liều: “ Thưa cô ở ngoài Bắc”, cô giáo hỏi vặn lại: “ Ngoài Bắc, nhưng ở
tỉnh nào hay thành phố nào ?”, tôi không trả lời được. Có lẽ cô giáo thấy một
thằng bé quê mùa, từ Thái Bình (người ta hay gọi đùa là Thái Lọ) vào
thẳng Sài Gòn nên không biết Hà Nội, không biết chợ Đồng Xuân. Từ đó tôi nhớ
mãi tên của ngôi chợ này.
Sau khi đi thăm hết các nơi chính, chúng
tôi hỏi người tài xế của hãng du lịch là ăn ở đâu ngon nhất,
anh tài xế đề nghị nên đến quán chả cá Lã Vọng vì hầu hết khách du lịch Hà Nội
mọi người đều ghé quán này nó vừa ngon, vừa rẻ. Đến cửa chúng tôi phải đứng đợi
khỏang 15 phút. Mùi mắm tôm cùng với mùi cá nướng và lá rau thì là thơm phức càng
lôi cuốn khách đứng đợi. Khi chảo cá nướng được mang lên, tôi tò mò hỏi người
bồi: “Ở đây anh dùng mỡ gì để nướng cá?”, người bồi hãnh diện trả lời: “ Chúng
tôi dùng mỡ lợn, ngon lắm”. Anh ta dùng danh từ “mỡ lợn” khiến tôi phát sợ, nếu
dùng danh từ quen thuộc “mỡ heo” như trong Nam có lẽ bớt sợ hơn, và từ đó
tôi không bao giờ vào quán này nữa dù quán cùng nằm trên phố Hàng Đường nơi tôi
ở.
Sau 3 ngày ở Hà Nội không có gì lôi cuốn. Thành phố quá xô bồ, bụi bặm, mùi cống rãnh xông lên hôi thối,
xe gắn máy chen chúc nhau trên phố, không theo một trật tự nào. Tôi về Hà Nội như
một du khách, không cho thân nhân và bạn bè biết trước để khỏi có có sự đón
đưa. Ngày thứ ba tôi gọi cho cô em gái và người em họ con ông chú để báo tin
hôm sau về quê ở Thái Bình.
Thành phố Hà Nội những ngày gần Tết càng
xô bồ, phố xá quá đông người. Chiếc xe chở tôi, Thế và Hằng khó khăn lắm mới ra
khỏi thành phố. Xe phải mất hơn 2 giờ mới vào được thị xã Thái Bình. Phố
xá khác lạ so với khi xưa. Hai bên đường có những dẫy nhà cao, khá đồ sộ nhưng tôi
có cảm tưởng sự xây cất rất cẩu thả, nếu chẳng may có một trận động đất nhẹ,
tất cả những ngôi nhà 3,4 tầng này sẽ sụp đổ dễ dàng.
Rồi chúng tôi vào đến làng Kỷ, nơi tôi đã
được sinh ra và lớn lên. Tên làng Kỷ đã có từ lâu lắm, về sau đổi lại là Hội
Châu, và bây giờ gọi là làng Minh Châu, huyện Thanh Quan. Chồng bà Huyện Thanh
Quan một thời đã làm tri huyện ở đây. Ngày xưa làng tôi được bao bọc bởi lũy
tre xanh, con đường dẫn vào làng được trải những viên đá thật lớn. Nhưng nay
dấu vết cũ không còn gì nữa. Thế cho biết chỗ ngày xưa gọi là Quán Cháy,
miếu và lăng cụ Thượng Quốc, lăng cụ Hàn không thấy đâu. Tất cả còn sót lại là
Mả Cả, nơi chôn cất của bao nhiêu đời dân trong làng và ngôi chùa rất linh
thiêng của làng. Phía bắc làng tôi là làng Thượng Phú, thị xã Châu Giang, phía
tây là làng Tầm Phương, Tống Thỏ và Trực Nội, phía đông là làng Tể, nơi ông
Ngoại tôi ở, phía nam là sông Trà Lý, bên kia sông là huyện Kiến Xương. Tôi nhớ
đến bài thơ của một thi sĩ người làng Kỷ đã làm bài “Về Làng Kỷ” khi mẹ ông mất:
Làng Kỷ nhỏ nhoi bên sông Trà Lý
Tiếng chuông chùa khấp khểnh bước chân trâu
Sáo ai thổi bên cầu khuya khoắt thế
Ngọn đèn dầu thao thức đốt lòng nhau
Làng Kỷ buồn mong manh như nét vẽ
Khi gió mùa đông bắc lạnh tràn qua
Tần tảo mẹ đôi chân trần tím tái
Cầu đá buồn bữa bữa gập ghềnh mưa…
Làng Kỷ nghèo nuôi chúng tôi rau cháo
Lặn lội thân cò bãi chợ, bến sông
Câu ca dao mẹ ru sờn mép võng
Mẹ đi rồi ! Câu hát có còn không ?
Làng Kỷ giờ không nghèo như xưa nữa
Nhưng cứ buồn xao xác cứ bâng khuâng
Lối cũ còn đây người xưa giờ đâu nhỉ
Có ai về Làng Kỷ với tôi không ? …
Có, tôi đã về Làng Kỷ. Nhưng không như ý bài
thơ, với tôi lối cũ không còn như xưa nữa, không còn lũy tre xanh, không còn
cầu đá bắc qua con lạch nhỏ, không còn cây đa đầu làng, không còn mẹ tôi và
người em con ông chú đã ra đi. Tôi đã thắp nén hương lên mộ mẹ. Đây là lần đầu
sau 50 năm tôi rời xa quê huơng, bây giờ mới được về thăm mộ mẹ và cũng buồn
không biết còn có dịp về quê lần nữa không. Cúng mộ mẹ xong, tôi đến nơi có
mộ cụ tổ, cụ cố, ông bà và các cô chú cùng người em họ. Hoàng Hưng lúc
tôi vào Nam em chưa biết đi, nhưng nay em đã lìa đời lúc tuổi ngoài 30. Hoàng
Hưng chết tại miền Nam cùng một lúc với bố vợ. Sau chiến tranh phải khó khăn
lắm mới tìm được mộ và mang hài cốt về. Mộ hai bố con chôn sát nhau. Rất may
tôi đã không tham gia trận này, nếu không tôi đã cầm súng hăng say giết quân
thù và biết đâu trong trong đó có em tôi. Hết chiến tranh bây giờ chỉ còn tình
người, các người thân ở lại tôi không thấy họ như quân thù trong lúc chiến
tranh nữa. Họ cũng như chúng tôi tất cả chỉ là nạn nhân và bị quay cuồng trong
một guồng máy…
Ngọc Lan năm nào cũng vậy, những ngày gần
Tết đều về thắp hương cho bố và cho chồng. Còn gì đau khổ bằng có hai cái tang
trong một ngày. Nhìn người thiếu phụ trẻ tuổi chừng chưa tới 50 tôi không khỏi
ngậm ngùi. Tôi liên tưởng tới câu hát: “Ôm
mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu…”
Ngọc Lan dáng người nhỏ nhắn, thanh cao,
hiền dịu, chồng chết đã lâu nhưng vẫn còn thương chồng nên chưa tái giá. Nhìn
Ngọc Lan tôi thấy có vẻ quen thuộc nên hỏi Thế và được biết Ngọc Lan là em bà
Nết, con ông Thẩm, người làng kế bên. Nói đến bà Nết thì tôi nhớ rõ. Nết lớn
hơn tôi hai tuổi. Lúc chưa vào Nam mẹ tôi nói đợi tôi đủ 13 tuổi, lúc đó Nết 15
sẽ đi hỏi Nết làm vợ cho tôi. Mẹ bảo: “ Gái hơn 2, trai hơn 1 là đẹp đôi”.
Tuy mới 12 tuổi nhưng tôi đã biết phân biệt được người con gái đẹp và người con
gái xấu. Nết người thon và cao như Ngọc Lan bây giờ nhưng hình như đẹp hơn Ngọc
Lan. Da nàng thật mịn và trắng hồng. Trong vùng Nết là người con gái đẹp nhất
nên mẹ tôi mới chọn cho tôi. Mẹ hỏi: “ Con có bằng lòng lấy Nết làm vợ
không?”, tôi trả lời : “ Con không biết”. Tuy không hiểu chuyện vợ chồng là gì
nhưng vì Nết đẹp nên tôi cũng thấy vui vui, làm bạn với Nết chắc tôi cũng
thích. Hình như Nết đã nghe có người nói bắn tin nên nàng rất thích vì gia đình
tôi giầu hơn nhà nàng, tôi lại khá đẹp trai và cao lớn, tuy kém nàng 2 tuổi
nhưng tôi cũng lớn bằng hoặc cao hơn. Đi đường gặp nhau nàng vui lắm,
nhưng trái với Nết, tôi rất thẹn thùng mỗi khi găp, tôi thường giả vờ nhìn
đi chỗ khác chứ không dám nhìn thẳng, nghĩ lại tôi thấy một thoáng tiếc thương…
Rồi phong trào cải cách ruộng đất và đấu
tố được phát động, chúng tôi bị học tập hình thức đấu tố cha ông. Từ lớp học
đến đoàn thể thiếu nhi đều phải tự kiểm thảo. Tôi sợ nhất là buổi học tập
kiểm thảo nơi lớp học của tôi. Anh Quỹ, tên người dạy lớp nhì. Anh bắt học trò gọi là “anh” chứ không được gọi là “thầy” cho có vẻ cách mạng, anh
nói gọi “thầy” chứng tỏ hãy còn phong kiến, lạc hậu. Trong bản tự kiểm thảo
chúng tôi phải ghi tất cả những tội lỗi, xấu xa từ bé tới lớn mà chúng tôi mắc
phải. Anh Qũy đưa ra một tiền đề là từ trước tới giờ vì chưa được cách mạng
giáo dục nên mọi người đều có tội lỗi, ai khai được nhiều tội của mình thì
người đó là người thành thật nhất và đã giác ngộ, ai khai ít tội thì người đó
không thành thật và chưa giác ngộ. Chúng tôi thi nhau khai tội của mình, không
có tội cũng tạo ra để khai. Cuối cùng có một học sinh được các bạn bầu hạng
nhất vì khai ra được nhiều tội. Tôi còn nhớ anh ta tên Nhuế, người gầy gò, nhỏ
bé. Được bầu hạng nhất, Nhuế mừng lắm và được gọi lên đứng gần bảng đen, khoanh
tay trước ngực và nhìn xuống cả lớp. Anh Quỹ đọc từng tội rồi bắt đầu chửi tới
tấp suốt từ sáng đến trưa, lúc anh Quỹ đập bàn, lúc anh hét thật to như áp đảo
“tội nhân”, cứ mỗi câu anh Quỹ lại gằn từng tiếng: “Em Nhuế ! em Nhuế !”, chúng
tôi ngồi dưới sợ quá, trong khi đó Nhuế nước mắt chảy ròng ròng, độc ác hơn nữa
là anh Qũy không cho lau nước mắt và cứ thế nước mắt, nước mũi chảy ra. Anh nói
nếu lau đi thì tội hãy còn, phải để cho tội lỗi chảy đi. Nhuế phải khoanh tay
đứng chịu sự xỉ vả nặng nề và liên tục trong gần 3 giờ đồng hồ nên đã té lăn ra
nền lớp học, mấy người ngồi bàn trên phải lấy nước lạnh lau mặt cho Nhuế, mãi
gần nửa giờ sau Nhuế mới tỉnh lại và buổi kiểm thảo chấm dứt. Anh Qũy mặt vẫn
lạnh lùng và tuyên bố: “ Từ nay em Nhuế đã trở thành một thiếu nhi tháng Tám
gương mẫu…”. Đó là kỷ niệm sợ hãi nhất
của tôi trong thời đi học trong vùng do Việt Minh kiểm soát. Rồi phong trào đấu
tố bộc phát mạnh, chú của bố tôi bị bắt mang ra đấu tố trước, đoàn thiếu nhi
chúng tôi được điều động đến để cổ võ cho phiên tòa, làm cho âm thanh của tiếng
“đả đảo” thêm vang dậy, tiếng “giết”
người thêm lạnh lùng. Ông bị trói ở sân đình làng, mấy người canh điền ngày trước đứng ra tố khổ
và gọi loa: “Đả đảo tên địa chủ cường hào gian ác !” tức thì cả tập thể cùng
hô: “Đả đả ! Đả đảo !”, rồi tiếng loa lại kêu lên: “Ai đồng ý giết!” tức thì cả đán đông cùng hô: “Giết! giết
!”. Tiếp theo là gạch, đá ném ào ào vào
đầu và người ông. Cứ như vậy lập đi lập lại nhiều lần, ông chú của bố tôi gục
đầu xuống, máu chảy ròng ròng. Một người canh điền tên Tuệ Cụt, gọi hắn như vậy
vì hắn không có ngón chân cái cho dễ phân biệt với Tuệ Lé trong làng, hắn đã
làm việc cho chú của bố tôi trong nhiều năm, hắn đi đến bên ông, tay cầm viên
gạch thật to đập mạnh vào đầu ông một lần nữa cho thỏa mãn lòng căm thù của
hắn. Tiếng loa kêu lên: “ Tên địa chủ cường hào gian ác đã đền tội trước nhân
dân !” . Xác ông được cởi trói và đem bó chiếu vùi xuống hố chứ không được bỏ
trong hòm gỗ. Một miếng sắt được viết vội vàng bằng sơn để trên mộ :
“Nấm mồ của tên địa chủ cường hào gian ác…”. Bố tôi thấy vậy sợ hãi ban đêm
chạy trốn khỏi làng, tìm đường vào Nam,
tôi đi theo bố, thế là chuyện lấy vợ không xong và mãi gần 20 năm sau tôi mới lập
gia đình. Nếu không có phong trào đấu tố và cải cách ruộng đất, tôi không vào
Nam và đã lấy Nết rồi cuộc đời không biết sẽ thay đổi ra sao…
Dù mới gặp Ngọc Lan lần đầu sao tôi thấy
rất thân quen. Ngọc Lan ở Hà Nội, nhà không xa với phố Hàng Đường nơi khách sạn
tôi ở. Ngọc Lan ngỏ ý mời đến nhà chơi. Tôi nhận lời và nói khoảng 10 giờ
sáng hôm sau sẽ tới. Ngọc Lan và Nết
đón ở cửa. Ngọc Lan giới thiệu tôi với chị nàng:
- Bác Văn, anh họ nhà em mới ở Mỹ về chơi.
Ngọc Lan chỉ Nết:
- Đây là chị ruột của em. Còn con trai em
đi chơi với bạn chưa về.
Nết cúi đầu chào và nói:
- Mời bác vào trong nhà uống nước.
Bây giờ tôi mới để ý, người vùng tôi họ
hay gọi nhau là “bác” hay “ông” thay cho con cháu họ chứ không gọi anh hay chị
dù là người nhà. Vào ghế ngồi rồi vừa hỏi chuyện vừa quan sát Nết. Người
đàn bà này đã một lần mẹ định hỏi
làm vợ cho tôi. Tuy một vài nét của người con gái đẹp ngày xưa vẫn còn trên
khuôn mặt nhưng nhìn tổng quát thì “nàng” nay đã già, đôi mắt hom hem, tóc bạc
gần nửa đầu, làn da mịn màng ngày xưa nay không còn nữa và đã nhăn nheo, hai
chiếc răng cửa đã rụng. Tôi nhớ đến lời nói của người bạn trong một hội cựu học
sinh khi lên diễn đàn kể chuyện về Việt Nam và
khuyên mọi người là đừng bao giờ gặp lại người yêu cũ, sẽ vỡ mộng vì
“nàng” nay không còn như xưa nữa và đã trở thành bà lão rồi. Nhưng đến thăm
chị em Nết không phải trong ý nghĩ đó, tôi đến thăm vì tình thân thuộc và tình
quê hương nơi tôi.
Hình như Nết còn nhớ chuyện mẹ tôi định
hỏi nàng mấy chục năm về trước nên thỉnh thoảng điểm nụ cười khiến cho
hai chiếc răng rụng càng rõ thêm. Để xóa
tan không khí im lặng, Ngọc Lan hỏi chị:
- Ngày xưa chị có biết bác Văn trong làng
không ?
- Biết chứ sao không. Bác ấy con nhà giầu
nhất trong vùng ai mà không biết. Nếu không có cuộc di cư…
Nết bỏ lửng câu nói ở đó nhưng tôi biết
nàng định nói gì. Hai chị em khẩn khoản mời ở lại ăn cơm trưa, tôi từ chối
lấy lý do xe của hãng du lịch đến đón, tài xế xe không đợi được. Thấy trong nhà
chỉ có hai chị em, tôi muốn hỏi nhưng rất khó nhập đề. Sau khi hỏi thăm về gia đình tôi xong, nét
mặt Nết có vẻ buồn buồn rồi kể:
- Chồng em và đứa con trai lớn đã chết tại
chiến trường miền Nam, không mang được xác về. Sau chiến tranh tưởng thằng con trai út sẽ được
gần mẹ, không ngờ lại có chiến tranh với Trung Quốc ở phương Bắc nên cháu cũng
bị chết ngoài mặt trận, thằng cháu này mang được xác về chôn. Nhà đơn chiếc nên
hai chị em ở với nhau. Na (tên cũ của Ngọc Lan) có nhiều người hỏi nhưng em nó
ngại không muốn đi lấy chồng nữa…
Nghe xong câu chuyện tôi cảm thấy thật
buồn. Đi đâu cũng thấy hậu quả của chiến tranh, nhất là dân miền Bắc họ cực khổ
hơn trong Nam rất nhiều nhưng họ vẫn tiếp tục chịu đựng.
Sau mấy tuần lễ đi từ Bắc vào Nam, mặc dù
đi trong dịp Tết nhưng sao tôi không thấy điều gì vui, không thấy đâu là mùa
Xuân quê hương, tất cả chỉ thấy cảnh lầm than, đói khổ. Hầu như nhà nào cũng có
người chết vì chiến tranh, nhưng người dân vẫn âm thầm sống cho qua ngày.
Về đến Hoa Kỳ đã lâu nhưng lúc nào
tôi cũng nghĩ đến cảnh đáng thương của hai chị em Nết Na cũng như bao nhiêu gia đình Việt Nam khác nơi
quê hương cũ của tôi…